Bài này ôn lại những điều chính đã học trong khóa “Dẫn Nhập vào Thánh Kinh”
Mặc Khải
Thiên Chúa tỏ ra và mặc khải mầu nhiệm ý định của Ngài cho ta qua Ðức Kitô. Ngài đã từ từ truyền dạy cho con người, từng giai đoạn, để họ có thể đón nhận mặc khải siêu nhiên về chính Ngài và yêu mến Ngài. Mặc khải này đạt tới cao điểm nơi con người và sứ mạng của Ngôi Lời nhập thể, là Chúa Giêsu Kitô.
Các Giai Ðoạn Mặc Khải
Mặc Khải Tự Nhiên
Ðầu tiên Thiên Chúa tự tỏ mình ra bằng cách luôn cung cấp cho con người những bằng chứng về sự hiện hữu của Ngài qua các tạo vật hữu hình. Ngay từ thủa ban đầu, Ngài đã tỏ mình cho nguyên tổ chúng ta và ban cho các ngài ân sủng cùng đức công chính rạng ngời. Khi hai ông bà phạm tội, Thiên Chúa đã nâng họ lên bằng lời hứa ơn cứu độ và tiếp tục săn sóc nhân loại.
Mặc Khải của Thiên Chúa (Siêu Nhiên)
Giao Ước với ông Noe sau Đại Hồng Thủy nói lên nguyên tắc, qua đó Thiên Chúa thực hiện công trình cứu độ các “dân tộc”. Ngài chia con người thành các dân tộc với ngôn ngữ khác biệt để giới hạn tội kiêu ngạo của bản tánh nhân loại. Giao Ước này vẫn có hiệu lực cho dân ngoại cho đến khi Tin Mừng được loan báo khắp nơi.
Thiên Chúa Chọn Ông Abram, đổi tên ông là Abraham, và hứa cho ông thành “tổ phụ của nhiều dân tộc.”
Thiên Chúa Hình Thành Dân Israel. Sau các tổ phụ, Thiên Chúa lập dân Israel làm Dân Riêng của Ngài bằng cách giải thoát họ khỏi ách nô lê Ai Cập. Ngài đã lập Giao Ước với họ qua ông Môsê, và ban cho họ Lề Luật để họ nhận biết Ngài và phụng sự Ngài như một Thiên Chúa hằng sống, chân thật và duy nhất, và để họ mong đợi Vị Cứu Tinh đã được Thiên Chúa hứa. Qua các ngôn sứ, Ngài đã nuôi dưỡng họ trong đức tin, và trong niềm hy vọng Cứu Ðộ qua một Giao Ước Mới được viết trong lòng họ
Qua Ngôi Lời Thiên Chúa đã phán dạy tất cả mọi sự. Qua Ðức Kitô, Thiên Chúa đã hoàn tất công việc mặc khải của Ngài.
Không còn thêm Mặc Khải Công Khai nữa sau Chúa Giêsu và các Thánh Tông Ðồ. Dầu Mặc Khải đã hoàn tất, nhưng vẫn chưa được diễn đạt hoàn toàn rõ ràng, nên đức tin Kitô phải cố gắng từ từ tìm hiểu qua dòng thời gian để hiểu ý nghĩa hoàn tòn của nó.
1,2,3,4 về Mặc Khải
- Chỉ có MỘT Lời duy nhất của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô.
- HAI Cách lưu truyền:
Ðức Kitô truyền cho các Tông Ðồ rao giảng Tin Mừng. Tin Mừng này là nguồn gốc của mọi chân lý cứu độ và quy luật luân lý.
Trong lời giảng dạy của các Thánh Tông Ðồ… Tin Mừng được truyền lại bằng hai cách, truyền khẩu bằng lời giảng dạy, bằng gương mẫu và các định chế mà các ngài thiết lập, và bằng văn tự trong Thánh Kinh.
… Tiếp tục qua những người kế vị để toàn bộ Thánh Kinh sống động luôn được bảo toàn trong Hội Thánh, các Tông Ðồ để lại các Giám Mục như là những người kế vị các ngài và trao lại cho họ “vai trò giáo huấn của các ngài”. Sự lưu truyền sống động này được hoàn thành nhờ Chúa Thánh Thần, và được truyền lại cách không gián đoạn cho đến tận thế. Sự lưu truyền này gọi là Thánh Truyền.
Như vậy Thánh Truyền và Thánh Kinh có chung một nguồn…Cả hai có chung một nguồn mạch duy nhất là Thiên Chúa. Cả hai đều làm cho mầu nhiệm Ðức Kitô được hiện diện và sinh hoa kết quả trong Hội Thánh.
… hai cách lưu truyền khác nhau:
- Thánh Kinh là Lời nói của Thiên Chúa được ghi lại dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần.
- Thánh Truyền truyền lại toàn vẹn Lời Chúa mà Ðức Kitô và CTT đã trao phó cho các Thánh Tông Ðồ, và được truyền lại cho những người kế vị các ngài. HT, được ủy thác trách vụ lưu truyền và giải thích Mặc Khải, “không chỉ nhờ Thánh Kinh mà biết cách xác thực tất cả những điều mặc khải, chính vì thế, cả Thánh Kinh lẫn Thánh Truyền đều phải được đón nhận và tôn kính bằng một tâm tình yêu mến và kính trọng như nhau” (DV 9).
Thánh Truyền và các truyền thống Hội Thánh. Các Kitô hữu thế hệ đầu tiên chưa có Tân Ước, và chính Tân Ước là bằng chứng của tiến trình Thánh Truyền sống động. Thánh Truyền được phân biệt với các “truyền thống” thần học, kỷ luật, phụng vụ hoặc phụng tự đã phát sinh theo thời gian trong các giáo đoàn địa phương. Các truyền thống này có thể được thay đổi, nhưng Thánh Truyền thì không thay đổi được.
- BA Tiêu Chuẩn – Hội Thánh đưa ra 3 tiêu chuẩn để giải thích Thánh Kinh:
- Hết sức chú ý đến “nội dung và tính thống nhất của toàn bộ Thánh Kinh”
- Đọc Thánh Kinh trong” Truyền thống sống động của toàn thể Hội Thánh”.
- Lưu ý đến tính “tương hợp (loại suy) của đức tin,” là tính chất tương hợp trong toàn bộ nội dung các chân lý đức tin và trong toàn bộ chương trình mặc khải.
- BỐN Nghĩa của Thánh Kinh
Thánh Kinh có hai tác giả. Thiên Chúa là tác giả chính và tác giả nhân loại là tác giả phụ hay tác giả công cụ.
Hội Thánh cũng phân biệt các nghĩa mà Thánh Kinh có thể được giải thích là:
Nghĩa văn tự (nghĩa đen) là nghĩa mà tác giả nhân loại có ý truyền đạt bằng các từ ngữ trong Thánh Kinh.
Nghĩa thiêng liêng cũng lệ thuộc vào lời văn, nhưng tiềm ẩn một ý nghĩa sâu xa hơn. Ý nghĩa này có thể là:
- nghĩa ẩn dụ trong đó một biến cố ám chỉ một biến cố khác.
- nghĩa luân lý hướng dẫn ta ăn ở chính trực.
- nghĩa dẫn đường, giúp nhìn các thực tại và biến cố theo ý nghĩa vĩnh cửu của chúng.
Tóm lại: Nghĩa văn tự nói về việc làm, Nghĩa ẩn dụ dạy điều phải tin, Nghĩa luân lý dạy điều phải làm, Nghĩa thần bí dạy điều phải vươn tới” (Augustine of Dacia). Sau hết mọi điều liên hệ đến việc giải thích Thánh Kinh đều phải tùy thuộc vào phán quyết của Hội Thánh, vì Hội Thánh được Thiên Chúa trao phó cho sứ mạng và chức vụ gìn giữ và giải thích lời Chúa”.
Việc Giải Thích
Gia Tài Ðức Tin
- Gia tài đức tin được trao phó cho toàn thể Hội Thánh. Các Tông Ðồ trao phó “Gia Tài Thánh” của Đức Tin chứa đựng trong Thánh Kinh và THánh Truyền cho toàn thể Hội Thánh.
- Huấn Quyền của Hội Thánh. Nhiệm vụ giải thích cách chân chính Lời Chúa được ủy thác cho các Ðức Giám Mục hiệp thông với Ðức Thánh Cha, gọi là Huấn Quyền Hội Thánh. HQ có nhiệm vụ phục vụ Lời Chúa, nên chỉ dạy những gì đã được truyền lại mà thôi. Các tín hữu có nhiệm vụ vâng phục Huấn Quyền như Chúa Giêsu đã truyền “Ai nghe các con là nghe Thầy”.
- Các tín điều của đức tin. Khi Huấn Quyền long trọng công bố những chân lý thiết yếu được như là tín điều, thì mọi tín hữu phải tin. Tín điều là những ánh sáng trên con đường đức tin, soi sáng và làm cho con đường đức tin ấy được an toàn. Sự hỗ tương và liên kết giữa các tín điều có thể được tìm thấy trong toàn bộ Mặc Khài về Mầu Nhiệm của Ðức Kitô.
- Ý nghĩa siêu nhiên của đức tin. Toàn thể tín hữu được tham dự vào ơn hiểu biết và việc lưu truyền chân lý mặc khải. Họ đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần là Đấng dạy dỗ họ và hướng dẫn họ trong mọi chân lý. Toàn thể tín hữu không thể sai lầm trong đức tin khi họ cùng với các Ðức Giám Mục “đều đồng ý về những chân lý liên quan đến đức tin và luân lý” (LG 12).
- Gia tăng hiểu biết về đức tin. Nhờ sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần, sự hiểu biết về các thực tại và các lời thuộc về gia tài đức tin có thể gia tăng trong đời sống Hội Thánh. Nhờ cảm thức siêu nhiên về đức tin, toàn thể Dân Thiên Chúa không ngừng đón nhận, hiểu thấu sâu xa hơn và sống hồng ân mặc khải ngày càng trọn vẹn hơn.
Thánh Kinh
- Ðức Kitô, Lời Duy Nhất của Thánh Kinh. Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta bằng ngôn ngữ loài người qua Thánh Kinh, như xưa Ngôi Lời của Cha hằng hữu đã trở nên con người như chúng ta để nói với chúng ta. Vì thế Hội Thánh luôn tôn kính Thánh Kinh như tôn Kính Mình Thánh Chúa. Thánh Kinh là lương thực thiêng liêng cho Hội Thánh và mọi Kitô hữu. Thiên Chúa nói với chúng ta qua TK..
- Linh Hứng và Chân Lý của Thánh Kinh. Thiên Chúa chính là tác giả của Thánh Kinh bởi vì Ngài linh hứng các tác giả các sách thánh, nên họ cũng chính là tác giả của Thánh Kinh. Tất cả những gì tác giả được linh hứng xác quyết phải được coi là xác quyết bởi Chúa Thánh Thần. Chúng ta “phải công nhận rằng Thánh Kinh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm, những chân lý mà Thiên Chúa đã muốn Thánh Kinh ghi lại để cứu độ chúng ta” (DV 11). Kitô Giáo không phải là “Ðạo Sách”, mà của Lời Chúa, một lời “không được viết xuốg và câm lặng mà Lời nhập thể và hằng sống”.
- Chúa Thánh Thần, Ðấng Giải Thích Thánh Kinh. Vì con người cũng là tác giả của Thánh Kinh, nên chúng ta phải lưu tâm đến các chủ ý của họ khi viết, đến các hoàn cảnh của thời đại và văn hóa của họ, cũng như các văn thể họ dùng, và diễn đạt tư tưởng của họ trong văn nói cũng như văn viết vào thời đại ấy.
Vì “Thánh Kinh đã được linh hứng bởi Chúa Thánh Thần nên cũng phải được đọc và giải thích trong Chúa Thánh Thần” (DV 12,3).
- Quy Ðiển Thánh Kinh – Nhờ Thánh Truyền mà Hội Thánh phân biệt được những văn kiện nào được liệt kê vào danh sách các Sách Thánh. Danh sách này được gọi là Quy Điển Thánh Kinh. Nó gồm có 46 sách Cựu Ước và 27 sách Tân Ước.
Cựu Ước (121-123) là phần không thể thiếu được của TK, mặc dầu chứa đựng các điều bất toàn và tạm thời, nhưng hướng về Ðức Kitô. “Nó là kho tàng chứa đựng sự khôn ngoan, kinh nguyện, và sau cùng ẩn chứa mầu nhiệm cứu độ chúng ta” ( DV 15). Tân Ước không vô hiệu hoá Cựu Ước, nhưng làm cho nó nên hoàn hảo qua giáo huấn của Đức Kitô.
Tân Ước (124-127) đặt trọng tâm vào giáo huấn và cuộc đời của Ðức Kitô và vào Hội Thánh Sơ Khai dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Các Sách Tin Mừng là trung tâm của tất cả Thánh Kinh “vì là nguồn tài liệu chính về cuộc đời và giáo huấn của Ngôi Lời Nhập Thể, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta” (DV 18).
Tin Mừng được thành hình qua ba giai đoạn.
- Đời sống và giáo huấn của Chúa Giêsu.
- Truyền khẩu hay lời giảng dạy của các Tông Ðồ và những môn đệ đầu tiên.
- Viết các Sách Tin Mừng, khi các Thánh Sử chọn một số trong nhiều yếu tố đã được truyền lại và thích nghi chúng cho phù hợp với nhu cầu của các nhóm riêng.
- Sự thống nhất giữa Cựu Ước và Tân Ước. Các công trình của Thiên Chúa trong Cựu Ước là tiền thân của những gì Ngài hoàn tất vào thời viên mãn trong Chúa Con Nhập Thể của Ngài. Vì thế chúng ta phải đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của Ðức Kitô chịu đóng đinh và phục Tân Ước cũng phải được đọc dưới ánh sáng của Cựu Ước. Theo một ngạn ngữ cổ xưa thì, “Tân Ước ẩn tàng trong Cựu Ước, Cựu Ước tỏ lộ trong Tân Ước.” Tất cả những gì Thiên Chúa đã làm trong Cựu Ước là các bước trung gian của ơn cứu độ.
- Thánh Kinh Trong Ðời Sống Hội Thánh.
“Lời Chúa còn có sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Hội Thánh, ban sức mạnh đức tin, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Hội Thánh”( DV 21). Cần phải “mở rộng đường cho các Kitô hữu đến với Thánh Kinh” (DV 22). Vì thế Hội Thánh tha thiết và đặc biệt khuyến khích mọi Kitô hữu “hãy năng đọc Thánh Kinh để học biết khoa học siêu việt của Chúa Giêsu Kitô (Pl 3,8). “Vì không biết Thánh Kinh là không biết Ðức Kitô” (Thánh Giêrônimô) (DV 25).