Vì trong Thánh Kinh, Thiên Chúa đã nhờ loài người và dùng cách nói của loài người mà phán dạy6, nên để thấy rõ điều chính Ngài muốn truyền đạt cho chúng ta, nhà chú giải Thánh Kinh phải cẩn thận tìm hiểu điều các thánh sử thật sự có ý trình bày và điều Thiên Chúa muốn diễn tả qua lời lẽ của các ngài.
(Dei Verbum, 12)
Hội Thánh có một truyền thống giải thích Thánh Kinh phong phú. Truyền thống này đã bắt đầu ngay từ trong Tân Ước, khi mà Cựu Ước được giải thích theo sự liên hệ với Đức Kitô, và được các Giáo Phụ thời sơ khai khai triển thêm, cùng được hệ thống hóa trong thời Trung Cổ. Mặc dầu các học giả hiện đại đã dùng “các phương tiện và những trợ cụ mới cho việc chú giải Thánh Kinh”[1] như Đức Thánh Cha Piô XII khuyến khích, nhưng nền tảng đã được các Giáo Phụ thời Hội Thánh Sơ Khai xây dựng vẫn tiếp tục nâng đỡ các nghiên cứu sau đó về ý nghĩa của các bản văn Thánh Kinh. Các Giáo Phụ không bó mỉnh vào một ý nghĩa của bản văn nhưng trái lại để cho bản văn nói lên sứ điệp của nó bằng nhiều cách khác nhau. Những cách khác nhau này phù hợp với những bậc thang ý nghĩa của một bản văn, còn được gọi là “các nghĩa của Thánh Kinh”.
Có hai nghĩa chính của Thánh Kinh: nghĩa văn tự và nghĩa thiêng liêng.
Nghĩa văn tự là nghĩa của chính các lời văn; Đó là nghĩa được tác giả nhân loại trực tiếp muốn nói đến”[2]. Nó được diễn tả nhiều cách như nghĩa văn phạm hay ngữ pháp, nghĩa thông thường, nghĩa mà tác giả nhân loại có ý nói đến, nghĩa mà tác giả Thiên Chúa có ý nóí đến, nghĩa lịch sử và cả nghĩa hiển nhiên. Nhấn mạnh đến các cách diễn tả khác nhau này là quan nìệm cho rằng “nghĩa văn tự là nghĩa được truyền đạt bởi những lời của Thánh Kinh”[3]. Nghĩa văn tự được khám phá ra nhờ nghiên cứu cẩn thận và chu đáo bản văn Thánh Kinh qua việc sử dụng tất cả mọi công cụ chú giải sẵn có, như các trợ học cụ về ngữ pháp, bằng chứng khảo cồ, phân tích lịch sử và văn chương, các nghiên cứu xã hội học và nhân học cùng bất cứ những gì cần thiết để mở rộng sự hiểu biết về lịch sử và bối cảnh của bản văn và nhờ đó hiểu rõ hơn nghĩa văn tự của bản văn Thánh Kinh. Tầm quan trọng của nghĩa văn tự được Thánh Tôma Aquinô nhấn mạnh từ lâu trong việc nhìn nhận rằng “tất cả các nghĩa trong Thánh Kinh đều dựa vào một nghĩa–nghĩa văn tự–bất cứ lý luận nào cũng phải rút ra từ đó mà thôi, chú không phải từ những nghĩa có ý trong ẩn dụ“.[4] Điều quan trọng này được nhắc lại trong lời khuyên nhù các học giả Thánh Kinh Công Giáo của Đức Piô XII : “nhà chú giải Công Giáo hãy gánh lấy nhiệm vụ này, trong tất cả các điều đặt lên người ấy, điều lớn nhất chính là khám phá và trình bày chi tiết nghĩa đích thực của các Sách Thánh. Trong khi thi hành nhiệm vụ này các nhà giải thích hãy nhớ rằng nỗ lực trước nhất và lớn lao nhất là phải phân biệt và định nghĩa rõ ràng nghĩa ấy của các chữ được gọi là văn tự.”[5]
Nghĩa thiêng liêng nói đến khi điều mà các chữ trong bản văn, tức là nghĩa văn tự, có ý nói đến cũng có một ý nghĩa xa hơn.[6] Như được khai triển trong Kitô giáo, nghĩa thiêng liêng liên hệ với “nghĩa được diễn tả bởi các bản văn Thánh Kinh khi được đọc dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, trong bối cảnh Mầu Nhỉệm Phục Sinh của Đức Kitô và đời sống mới phát sinh từ đó”.[7] Gỉải thích Cựu Ước cách thiêng liêng là điều nổi bật của các Giáo Phụ, vì các ngài tin rằng Cựu Ước chứa đựng sự chuẩn bị của Thiên Chúa cho Con của Ngài. Các Giáo Phụ thời sơ khai đã dùng nhiều từ để chỉ nghĩa thiêng liêng của bản văn, như nghĩa ẩn dụ, nghĩa mầu nhiệm hay thần bí và nghĩa luân lý.[8] Những lằn ranh giữa các từ này thường không được rõ ràng, và nghĩa của chúng thường chồng lên nhau. Thật vậy, có khi những từ này được các Giáo Phụ thời sơ khai dùng thay đổi lẫn nhau. Đến thời Trung Cổ, ba nghĩa khác biệt của Thánh Kinh đã xuất hiện: nghĩa ẩn dụ (bao gồm cả nghĩa loại suy), nghĩa luân lý và nghĩa dẫn đường hoặc nghĩa tương lai.
Nghĩa ẩn dụ nói về nghĩa được che dấu đằng sau bề mặt của bản văn. Việc tìm kiếm nghĩa ẩn dụ của các bản văn có nguồn gốc từ thế giới Hy Lạp, đặc biệt là trong triết học của Platô như được hiểu trong thời Hy Lạp cổ đại. Cách giải thích ẩn dụ đã được dùng để cắt nghĩa những chuyện thần thoại của người Hy Lạp trong đó các thần minh thường có vẻ thô bạo và cách cư xử của họ thì vô luân. Nền tảng của phương pháp ẩn dụ là khái niệm rằng các tác giả của thời xưa đã sáng tác các tác phẩm của họ bằng một ngôn ngữ tiềm ẩn. Họ viết một đàng nhưng ý định của họ thì lại khác. Để giữ lại những câu chuyện cổ xưa, và cho phép những câu chuyện ấy nói với một thời đại mới, cần phải tìm một ý nghĩa vượt ra ngoài những điều mà lời được viết bằng văn tự nói. Để khám phá ra ý nghĩa của những thần thoại cổ xưa ấy, cần phải coi lời được viết xuống như một biểu tượng của một thực tại sâu xa hơn; cần phải tìm một ý nghĩa sâu xa hơn bên dưới bề mặt hoặc nghĩa văn tự của bản văn. Bằng cách giải thích ẩn dụ, sự thật được tỏ lộ; ở đó bí mật bây giờ được lộ ra.
Giống các thần thoại Hy Lạp cổ xưa, nhiều đoạn trong Thánh Kinh Do Thái tối nghĩa hoặc có vẻ bất nhất, hoặc nội dung của đoạn văn có vẻ không thể chấp nhận được khi xét theo tiêu chuẩn của các thời đại sau này. Việc dùng phương pháp ẩn dụ để giải thích Thánh Kinh trong Hội Thánh sơ khai có thể giải tỏa được các bất nhất của nó, các hành vi khả nghi của các nhân vật, cùng sự thô bạo của nó. Người ủng hộ vĩ đại nhất của phương pháp giải thích ẩn dụ của Thánh Kinh Do Thái là Philô thành Alexandria. Trong việc tìm kiếm ý nghĩa sâu xa hơn của bàn văn, Philô đã đồng hóa các nhân vật của Thánh Kinh với các đức tính trừu tượng hoặc với linh hồn trong cuộc hành trình của nó qua cuộc sống. Các tên, các số, các đo lường, và dường như các chi tiết thế tục được khám phá nghĩa dấu ẩn và nghĩa rộng lớn và thần bí.[9] Phương pháp ẩn dụ của Philô thành Alexandria có ảnh hưởng trong việc phát triển cách giải thích ẩn dụ của Kitô giáo.
Giải thích ẩn dụ được tìm thấy trong Tân Ước. Chẳng hạn như trong Thư gửi tín hữu Galatê nói, khi Thánh Phaolô viết rằng Abraham có hai con trai, một người con bởi người đàn bà nô lệ và người con khác bởi người đàn bà tự do. Người con của người đàn bà nô lệ được sinh ra theo tự nhiên, người con của tự do được sinh ra bởi một lời hứa. Đây là một ẩn dụ. Hai người phụ nữ này là hai giao ước. Một từ Núi Sinai, mang thai con cho sự nô lệ; đó là Hagar…. Nhưng Giêrusalem trên trời được sinh tự do, và nàng là mẹ chúng ta. (Gal 4:22-26).
Phương pháp giải thích ẩn dụ là phương pháp thông dụng nhất trong Hội Thánh Sơ Khai từ thời Giáo Phụ Clêmentê thành Alexandria (150 đến 211/215 AD) cho đến thế kỷ thứ tư. Giáo Phụ Ôrigen, sống trong thế kỷ thứ 3, có lẽ là một đại diện lớn nhất của loại giải thích này.
Mặc dù các học giả thời nay phân biệt giữa giải thích ẩn dụ và loại suy, một sự phân biệt như thế không xảy ra trong Hội Thánh sơ khai. Các Giáo Phụ của Hội Thánh sơ khai đã nói đến các “tiền trưng”, nhưng các ngài đã không phân biệt giữa ẩn dụ và loại suy như các học giả đã bắt đầu làm gần đây. Điều rõ ràng với loại suy là khái niệm rằng điều đi trước Đức Kitô chỉ là hình bóng của điều phải đến. Các nhân vật và các biến cố của Cựu Ước được hiểu như “tiền trưng” của nhân vật hay biến cố trong Tân Ước, là những gì là “đối hình”. Cựu Ước, khi cắt nghĩa theo cách loại suy, được coi là dự kiến hay báo trước các biến cố sẽ xảy ra. Việc vượt qua Biển Đỏ được coi như một tiên trưng của Bí Tích Rửa Tội; việc Isaac vác củi để hiến tế của chính ông trong chương 22 của Sáng Thế được coi là một tiên trưng của việc Chúa Giêsu vác thập giá lên núi Calvê. Một số đại diện của giải thích loại suy là giám mục Điôđôrô thành Tarsô, Gioan Kim Khẩu, và Theodore thành Mopsuêstia. Loại suy được tìm thấy trong các tác phẩm chú giải Thánh Kinh của Thánh Augustinô và Thánh Giêrônimô cùng với cách giải thích ẩn dụ.
Giải thích ẩn dụ cho các nhà chú giải thời sơ khai một cách để tìm ý nghĩa trong Thánh Kinh, kể cả những đoạn tối nghĩa và không thích hợp; nhưng vì phương pháp này đặt trọng tâm vào ý nghĩa sâu xa hơn của một bản văn, nghĩa văn tự được coi là không quan trọng. Cách chú thích loại suy, ngược lại, tôn trọng nghĩa văn tự bởi vì phương pháp giải thích này dựa một cách vững chắc hơn vào nghĩa văn tự của bản văn. Tuy nhiên, cả phương pháp loại suy và ẩn dụ vượt quá nghĩa văn tự của bản văn trong Hội Thánh thời sơ khai. Với các nhà chú giải loại suy lời văn tự chỉ ra ngoài chính mình; với các nhà chú giải ẩn dụ lời văn tự thay thế cho một điều gì đó.
Hai nghĩa thiêng liêng khác, nghĩa luân lý và nghĩa dẫn đường, được định nghĩa theo chủ tâm của chúng. Nghĩa luân lý liên quan đến các bài học luân lý có thể được rút ra từ bản văn Thánh Kinh. Nếu các biến cố trong quá khứ của Israel “được viết để giáo huấn chúng ta” (1Cor 10:11), thì chúng ta có thể học làm sao để cẩn thận chú ý đến lịch sử Israel, các lời ngôn sứ, và các lời khuyên được tìm thấy trong truyền thống khôn ngoan của Israel – thực ra, đến toàn thể Thánh Kinh. Nghĩa dẫn đường đại diện một sự chuyển hướng tiêu điểm về tương lai, đặc biệt là thời sau hết hay cánh chung. Nó nhìn vào cùng đích của cuộc hành trình của chúng ta qua cuộc đời như là chúng ta “đang được dẫn lên”[10] nhà mình trên Trời.
Bốn nghĩa này của Thánh Kinh–văn tự, ẩn dụ, luân lý và dẫn đườg, được đề ra trước hết bởi Gioan Cassianô (360-435 AD). Thí dụ, Gioan Cassianô đã viết: “Một thành Giêrusalem có thể được hiểu bốn cách khác nhau, theo nghĩa lịch sử như một thành của người Do Thái, theo nghĩa ẩn dụ như Hội Thánh của Đức Kitô, theo nghĩa dẫn đường như thành của Thiên Chúa trên trời ‘là mẹ của tất cả chúng ta’ (Gal 4:26), theo nghĩa luân lý như linh hồn của một người”.[11] Th. Agustinô đưa ra một phân chia bốn chiều tương tự trong De Genesi ad litteram: “Trong tất cả các Sách Thánh, chúng ta phải kể đến chân lý vĩnh cửu được dạy, các sự kiện được tường thuật, các biến cố trong tương lai được dự đoán, và các giới luật và lời khuyên được ban cho (1.1)[12]
Các nhà chú giải thời trung cố có vẻ coi những câu nói này như thuộc về chương trình để giải thích. Mặc dù có một số người nói đến nhiều nghĩa như bảy nghĩa của Thánh Kinh, nghĩa bốn chiều của Thánh Kinh đã trở nên thông dụng. Một bài thơ đơn sơ được gán cho Augustinô thành Dacia tóm tắt quyết tâm dùng bốn nghĩa của Thánh Kinh trong thời Trung Cổ: “Văn tự dạy về biến cố; ẩn dụ dạy vể điều phẳi tin; luân lý dạy về điều phải làm, và dẫn đường dạy vể điểm phải đạt đến”.[13] Trong thời Trung Cổ có một số người, như Hugh of St. Victor và những người theo ông, có khuynh hướng giải thích cách từ chương hơn; những ngưởi khác như Bernarđô Clairvaux, theo hướng giải thích thiên tâm linh hơn. Mặc dù thông thường hơn thì các nghĩa khác nhau này của Thánh Kinh được đặt cạnh nhau; và tất cả đều được coi là những cách khả thi để hiểu các bản văn Thánh Kinh, dù rất khác nhau.
Cải Cách Tin Lành mang đến với nó một trọng tâm giải thích khác, khi Lutherô dùng câu của Thánh Phaolô “chúng ta được nên công chính nhờ đức tin” (Rm 5:1) làm chìa hóa để hiểu tất cả Thánh Kinh. Lutherô và các nhà cải cách sau đó đã tránh lối giải thích ẩn dụ, và lối giải thích theo nghĩa đen của Thánh Kinh bắt đầu được nhấn mạnh hơn. Trong đạo Công Giáo không có mấy thay đổi từ lập trường đã có từ thời Trung Cổ với các nghĩa bốn chiều kích của Thánh Kinh. Đến thời Khai Minh, lý trí được tôn làm tiêu chuẩn tối hậu cho kiến thức, và các phương pháp giải thích bắt đầu thay đổi. Người ta bắt đầu đặt vấn đề với quyền bính và truyền thống, và phương pháp khoa học bắt đầu thống trị tất cả mọi lãnh vực tìm hiều. Sự phát triển nhanh chóng của kiến thức đi kèm với sự phát triển của khoa học, cùng các khám phá về khảo cổ, đưa đến những câu hỏi quan trọng về sự chính xác về lịch sử và khoa học của Thánh Kinh.
Phương pháp phê bình lịch sử xuất hiện từ thế kỷ thứ 18 đã bá chủ nghành giải thích Thánh Kinh từ đó, và tiếp tục ảnh hưởng đến việc giải thích Thánh Kinh hiện đại. Phương pháp phê bình lịch sử không phải là một phương pháp; nó sử dụng vài phương pháp trong nỗ lực giải thích Thánh Kinh trong phạm vi lịch sử và văn chương của nó, cùng trong việc tìm kiếm ý nghĩa mà các tác giả có ý nói đến. Phương pháp này chú ý đến lịch sử của bản văn và việc thành hình nó từ các nguồn truyền khẩu hay văn viết đã có từ trước; nó nhờ đến sự giúp đỡ của nhiều nghành khác nhau, như ngữ học, khảo cổ, xã hội học, nhân chủng học, thuyết văn chương, và so sánh tôn giáo, để cố gắng xác định ý nghĩa của một đoạn trong bối cảnh lịch sử và văn chương của nó. Những người dùng phương pháp này đã thách đố nhiều giả định trước về tính đáng tin cậy về lịch sử của bản văn Thánh Kinh và việc hình thành các giáo thuyết dựa vào Thánh Kinh. Khi phương pháp phê bình lịch sử đi vào đại học và bắt đầu làm bá chủ trong các chủng Viện Tin Lành, phái cơ bản nổi lên và nhất quyết nhấn mạnh đến tính vô ngộ của Thánh Kinh trong mọi lãnh vực hiểu biết và giữ chặt những điều cơ bản của đức tin Kitô như chúng đã được định nghĩa trước đây.
Trong giới Công Giáo vào đầu của thế kỷ 20, các nhà chú giải Thánh Kinh bắt đầu bàn đến nghĩa trọn vẹn (sensus plenior) của Thánh Kinh. “Nghĩa trọn vẹn được định nghĩa như nghĩa thâm sâu của bản văn, mà Thiên Chúa có ý nói, nhưng không được tác giả nhân loại diễn tả cách đầy đủ”.[14] Nghĩa trọn vẹn này được tìm thấy khi các tác giả sau của Thánh Kinh gán cho các câu trước đó một nghĩa mới, như việc Thánh Matthêu dùng Isaia 7:14 (Mt 1:23) để nói về việc Chúa Giêsu được thụ thai đồng trinh; hay khi các tín điều sau đó hoặc định tín của Công Đồng gán cho một câu Thánh Kinh một nghĩa, như định tín về Tội Nguyên Tổ dựa vào Rm 5:12-21.[15] Khó mà phân biệt được sự khác nhau giữa nghĩa trọn vẹn và nghĩa thiêng liêng.[16] Nghĩa trọn vẹn giữ nguyên nghĩa văn tự, nhưng khẳng định rằng đoạn văn có được một ý nghĩa mới sau Đức Kitô. Nghĩa trọn vẹn của một bản văn, dù do ý định của Thiên Chúa, không được thấy cho đến khi sự viên mãn của mặc khải được thể hiện trong Đức Kitô.
Thảo luận về nghĩa trọn vẹn vẫn còn tiếp tục, nhưng phần lớn bị lấn át bởi việc sử dụng phương pháp phê bình lịch sử trong số các nhà chú giải Công Giáo từ giữa thế kỷ 20. ĐTC Piô XII đã ban hành Thông Điệp Divino Afflante Spiritu năm 1943, cho phép dùng các phương pháp giải thích Thánh Kinh hiện đại:
Trong thời đại chúng ta, quả thật là có quá nhiều vần đề và khó khăn mới, nên nhờ ơn Thiên Chúa, các phương tiện và trợ cụ mới cũng được cung cấp cho các nhà chú giải. . . Vậy nhà chú giải, với tất cả cẩn trọng và không bỏ qua bất cứ ánh sáng nào đến từ các nghiên cứu mới đây, cố gắng xác định đặc tính và các hoàn cảnh riêng bìệt của Thánh Ký, thời đại mà các ngài sống, các nguồn văn viết hay truyền khẩu mà ngài đã tham khảo và các hình thức diễn tả mà ngài đã dùng.” (Divino Afflante Spiritu, số 33)
Lập trường của ĐTC Piô XII được Công Đồng Vaticanô II tái xác nhận trong Hiến Chế Tín Lý Dei Verbum[17] và lại một lần nữa trong tài liệu Giải Thích Thánh Kinh trong Hội Thánh.
Từ thời các Giáo Phụ Sơ Khai qua thời Trung Cổ, cho đến thế giới tân tiến, và bây giờ vào thời hiện đại của chúng ta, việc giải thích Thánh Kinh đã tăng trường và phát triển, với mỗi thời đại kế tiếp nhau áp dụng các nguyên tắc chú giải hay nhất của thời đại mình[18] để xác định ý nghĩa của Thánh Kinh. Ngôn ngữ về “các nghĩa của Thánh Kinh” không còn được các học giả hiện đại sử dụng nữa; và dù những người đang sử dụng phương pháp phê bình lịch sử thường khăng khăng cho rằng một bản văn chỉ có một nghĩa, nhưng càng ngày người ta càng công nhận rằng có nhiều tầng lớp ý nghĩa trong một bản văn. Các học giả Thánh Kinh hiện đại sử dụng các phương pháp phê bình lịch sử nhấn mạnh đến những gì mà bản văn có ý nói đến trong bối cảnh lịch sử và văn chương của nó, nhưng với Thánh Kinh, chúng ta đứng trước một bản văn sống động là bản văn tiếp tục có ý nghĩa đối với những cộng đồng Đức Tin coi nó là bản văn thánh. Vì thế, chúng ta không thể chỉ chú ý đến điều mà bản văn có ý nói, mà còn đến ý nghĩa của nó đối với cộng đồng tín hữu. Chúng ta tiếp tục đi lại giữa nghĩa văn tự và thiêng liêng của bản văn trong khi cố gắng tìm xem Lời Chúa muốn nói gì với chúng ta hôm nay.
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
dựa theo bài The Senses of Scripture của Pauline A. Viviano, PhD từ Tài Liệu Chúa Nhật Giáo Lý của HDGM Hoa Kỳ
[1] ĐTC Piô XII, Divino Afflante Spiritu (1943), s. 33
[2] Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh, Giải Thích Thánh Kinh trong Hội Thánh (1993), s. 131.
[3] Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, câu 116
[4] Thánh Tôma Aquinô. Tổng Luận Thần Học, 1,1,10, 1- Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 116.
[5] Pope Pius XII, Divino Affl ante Spiritu, no. 23.
[6] Thánh Tôma Aquinô. Tổng Luận Thần Học, I, 1, 10
[7] Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh, Giải Thích Thánh Kinh trong Hội Thánh (1993), s. 135
[8] Từ Raymond Brown, The Sensus Plenior of Sacred Scripture (Baltimore, MD: St. Mary’s University, 1955), 46: Đôi khi theoria được hiểu như ẩn dụ, nhưng theo trường phái Antiochia thì từ này nói về “nhận thức về tương lai mà một ngôn sứ thưởng thức qua trung gian của những hoàn cảnh hiện tại mà ngôn sứ đang diễn tả.”
[9] James L. Kugel, Early Biblical Interpretation (Philadelphia: Westminster Press, 1986), 82.
[10] Từ anagoge của Hy Lạp có nghĩa là “đang được dẫn lên.”
[11] John Cassian, Conferences, trans. Colm Luibheid (New York: Paulist Press, 1985), 160
[12] St. Augustine, The Literal Meaning of Genesis, trans. John Hammond Taylor (New York: Newman Press, 1982), 19.
[13] Henri de Lubac, Medieval Exegesis: The Four Senses of Scripture, dịch giả Mark Sebanc (Grand Rapids, MI: Eerdmans, 1998), 1. Bản văn La Tinh đọc: Littera gesta docet, quid credas allegoria, Moralis quid agas, quo tendas anagogia (chú thích 1, p. 271). Được tìm thấy trong Rotulus pugillaris ấn hành năm 1206 bởi Augustine of Dacia
[14] Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh, Giải Thích Thánh Kinh trong Hội Thánh (1993), s. 141.
[15] Ibid.
[16] Brown, The Sensus Plenior of Sacred Scripture, 12
[17] Dei Verbum, 3:11-12.
[18] Khoa chú giải là một khoa học hay nghệ thuật giải thích. Nó cũng có thể nói về việc nghiên cứu những nguyên tắc khác nhau của việc giải thích Thánh Kinh.
Handouts may be reproduced to use in promoting Catechetical Sunday. Copyright © United States Conference of Catholic Bishops, Washington, D.C. All rights reserved.
Làm ơn tải PowerPoint của bài này ở đây: