Sách Rút (Ruth)

Sách Rút (R) kể câu chuyện về cô Rút, bà cố nội của vua David và là tổ tiên 31 đời của Chúa Giê-su. Chuyện xảy ra trong thời các Thủ Lãnh quản lý dân Ít-ra-el (Israel), tức khoảng 1200-1050 tCN. Sách kể về cô Rút (Ruth), người “nước ngoài” Mô-áp (Moab), chấp nhận Thiên Chúa của dân tộc Ít-ra-el là Thiên Chúa của mình và dân tộc Ít-ra-el là dân tộc của mình.

Tác giả sách Rút hoàn toàn vô danh. Sách được viết vào khoảng thế kỷ VI TCN hay sớm hơn.

Sách Rút có thể được chia ra bốn phần chính như sau, mỗi phần là một chương:

I. Nạn đói, Mô-áp và những cái chết khiến bà Na-o-mi (Naomi) trở về lại quê hương, (R1,1-22):

  1. Vì có nạn đói, Ê-li-me-léc (Elimelech) và vợ Na-o-mi dẫn 2 con trai là Mác-lôn (Mahlon) và Kin-giôn (Chilion) bỏ xứ Bê-lem (Bethlehem) miền Giu-đa (Judah) đến ở Mô-áp. Rồi ông Ê-li-me-léc chết, Mác-lôn và Kin-giôn lấy 2 người vợ người Mô-áp là Rút và Oóc-pa (Orpah) theo thứ tự. Họ ở lại Mô-áp 10 năm. Rồi Mác-lôn và Kin-giôn cũng chết. (R1,1-5).
  2. Bà Na-o-mi quyết định trở về Bê-lem vì bà nghe Thiên Chúa đã cho Bê-lem có bánh ăn. Bà không muốn 2 cô dâu theo bà. Oóc-pa trở về nhà cha mẹ ruột, nhưng Rút cứ khăng khăng bỏ Mô-áp theo bà đi Bê-lem. (R1,6-18).
  3. Bà Na-o-mi và Rút trở về gặp lại bà con tại Bê-lem, (R1,19-22).

II. Cô Rút và ông Bô-át (Boaz), người Bê-lem, gặp nhau lần đầu, (R2,1-23):

  1. Để có cái ăn cho mẹ chồng và mình, cô Rút đi mót lúa trong đồng ruộng của ông Bô-át, một người bà con bên chồng của bà Na-o-mi, (R2,1-3).
  2. Ông Bô-át ra đồng trông chừng thợ gặt lúa, hỏi thợ gặt lúa cô Rút là ai, (R2,4-7).
  3. Ông Bô-át gặp cô Rút, dặn thợ gặt để sót nhiều lúa cho cô Rút mót, (R2,8-17).
  4. Cô Rút về nhà, trò chuyện với mẹ chồng về ông Bô-át, (2,18-23)

III. Cô Rút và ông Bô-át gặp nhau theo kế hoạch của bà Na-o-mi, (R3,1-18):

  1. Bà Na-o-mi tính kế cho cô Rút chinh phục ông Bô-át, vì ông ấy là một trong những người bảo tồn dòng dõi của chồng bà Na-o-mi theo luật Lê-vi, (R3,1-5).
  2. Cô Rút thực hiện kế hoạch của bà Na-o-mi bảo cô là “đến lật góc chăn phủ chân ông mà nằm xuống. Ông sẽ cho con biết con phải làm gì”. Đêm đã qua và không có chuyện gì xảy ra. Ông Bô-át hứa với Rút sẽ làm người bảo tồn dòng dõi, nếu người có quyền ưu tiên bảo tồn dòng dõi hơn ông không làm. Cô Rút không phải làm gì, nhưng ông Bô-át đong cho cô sáu đấu lúa mạch, (R3,6-15).
  3. Cô Rút về nhà, kể chuyện với mẹ chồng và chờ đợi kết quả việc ông Bô-át sẽ làm, (R3,16-18).

IV. Ông Bô-át cưới cô Rút và cô Rút sinh con trai, (R 4,1-22):

  1. Nhân cơ hội bà Na-o-mi định bán thửa ruộng của ông Ê-li-me-léc, ông Bô-át giải quyết vấn đề quyền bảo tồn nòi giống theo luật Lê-vi [xin xem (Lv 25,25), (Thứ Luật 25,5-10) và (Levirate Marriage)] với một người bà con khác của ông Ê-li-me-léc, (R 4,1-8).
  2. Sau khi một người bà con gần hơn với ông Ê-li-me-léc đã long trọng từ bỏ quyền ưu tiên của mình, ông Bô-át được các kỳ mục và dân thừa nhận quyền bảo tồn nòi giống của ông đối với bà Nao-mi, hay cô Rút, (R 4,9-12).
  3. Ông Bô-át cưới cô Rút và cô Rút sinh con trai, đứa bé sẽ làm cho tên của ông Ê-li-me-léc tồn tại mãi mãi ở srael. (Ông Bô-át có họ hàng với ông Ê-li-me-léc, chồng bà Nao-mi, nên theo luật Lê-vi, ông có thể cưới bà Nao-mi. Nhưng vì bà Nao-mi “quá già rồi, không còn tái giá được nữa”, (R 1,12), nên ông Bô-át cưới vợ góa của Mác-lôn, tức cô Rút, để kế thừa gia nghiệp của ông Ê-li-me-léc). (R4, 13-17).
  4. Gia phả vua Ða-vít (David): Ông Bô-át và cô Rút sinh ra ông Ô-bết (Obed), ông nội của vua Ða-vít. Theo gia phả thì Chúa Giê-su thuộc phả hệ của vua Ða-vít: từ Ða-vít đến Chúa Giê-su là 28 đời (Xin xem “Bài 5 – Các tôn giáo thờ kính Thiên Chúa và Kinh Thánh của các tôn giáo này./III. Nguồn gốc Kitô giáo/1. Từ Do thái giáo đến Kitô giáo/ a. Phả hệ của Chúa Giêsu kể từ Abraham”, post # 46), (R4, 18-22).Trúc Võ

trích từ http://ydan.org/printthread.php?t=27426&pp=7&page=16