Trích Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo
Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Ngài (x. Eph 1,9). Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa (x. Eph 2,18; 2P 1,4). Trong việc mạc khải này, với tình thương chan chứa của Ngài, Thiên Chúa vô hình (x. Col 1,15; 1Tm 1,17) ngỏ lời với loài người như với bạn hữu (x. Xac 33,11; Gio 15,14-15). Ngài đối thoại với họ (x. Bar 3,38) để mời gọi và đón nhận họ hiệp nhất với Ngài. Công cuộc mạc khải này được thực hiện bằng các hành động và lời nói liên kết mật thiết với nhau. Nên các việc Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu rỗi bày tỏ, củng cố giáo lý và những điều được giải thích qua lời nói. Còn lời nói thì công bố các việc làm và khai sáng mầu nhiệm chứa đựng trong đó. Nhờ mạc khải này, chân lý thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về phần rỗi con người, được sáng tỏ nơi Chúa Kitô, Ðấng trung gian, đồng thời là sự viên mãn của toàn thể mạc khải. (Dei Verbum, 2)
Khả Năng Ðón Nhận Thiên Chúa của Con Người
Sự khao khát Thiên Chúa – Là con người không ai mà không thắc mắc về thân phận của mình: Mình từ đâu đến, đến đây để làm gì và chết rồi sẽ đi đâu? Họ không bao giờ cảm thấy hoàn toàn hạnh phúc và luôn luôn khao khát một điều gì siêu việt. Sự khao khát này được in vào tâm hồn con người vì con người được dựng nên bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có hạnh phúc thật khi tìm thấy Thiên Chúa. Vì thế mà từ xưa đến nay con người vẫn tìm kiếm Thiên Chúa qua các hình thức tôn giáo, và Ngài không ngừng mời gọi mỗi người hãy đi tìm Ngài để được sự sống và sống hạnh phúc (GLCG 27-30).
Những con đường đưa đến nhận biết Thiên Chúa – Những con đường này còn được gọi là các bằng chứng rằng có Thiên Chúa. Những bằng chứng này phát xuất từ vũ trụ và những vẻ đẹp của nó, rồi đến con người với lòng sẵn sàng đón nhận chân lý và những sự tốt đẹp về mặt tinh thần lẫn thể lý, cùng tiếng lương tâm và lý trí. Nhờ những khả năng của mình, con người có thể nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nhưng để con người có thể sống mật thiết với Ngài, Thiên Chúa vừa tỏ mình ra vừa ban cho con người ân sủng để họ đón nhận mặc khải ấy trong đức tin (31-35).
Sự nhận biết Thiên Chúa theo Hội Thánh – Hội Thánh tin chắc và dạy rằng Thiên Chúa là nguyên lý và cùng đích của mọi loài. Chúng ta có thể nhận biết Ngài cách chắc chắn nhờ ánh sáng của lý trí vì đã được tạo dựng theo hình ảnh Ngài. Nhưng nếu chỉ dựa vào lý trí mà thôi thì rất khó mà nhận rõ Thiên Chúa, nên con người cần được soi dẫn bằng mặc khải của Thiên Chúa (36-38).
Chúng ta phải nói thế nào về Thiên Chúa – Vì sự hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa có giới hạn, nhưng bởi tạo vật có một vài vẻ giống Thiên Chúa, đặc biệt là con người, là loài được tạo dựng giống hình ảnh của Ngài, nên chúng ta có thể nói về Thiên Chúa bằng cách dùng tạo vật làm khởi điểm. Chúng ta có thể nhìn vào vẻ đẹp của thiên nhiên mà nói rằng vẻ đẹp của Thiên Chúa còn hơn nhiều (39-49).
Thiên Chúa Ðến Gặp Con Người
Vi bằng lý trí tự nhiên con người không thể hoàn toàn nhận biết Thiên Chúa, nên Ngài đã mặc khải cho họ các mầu nhiệm của Ngài qua Ðức Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần. (50)
Mặc Khải của Thiên Chúa
Thiên Chúa đã tỏ mình ra qua sự nhân lành và khôn ngoan của Ngài, và mặc khải mầu nhiệm ý định của Ngài cho chúng ta qua Ðức Kitô. Ngài đã truyền dạy cho con người cách tiệm tiến, để họ có thể đón nhận mặc khải siêu nhiên của Ngài. Mặc khải này đạt tới cao điểm nơi con người và sứ mạng của Ngôi Lời Nhập Thể, là Chúa Giêsu Kitô (51-53).
Các Giai Ðoạn Mặc Khải
- Ðầu tiên Thiên Chúa tỏ mình rabằng cách luôn cung cấp cho con người những bằng chứng về sự hiện hữu của Ngài qua các tạo vật hữu hình. Ngài đã tỏ mình ra cho nguyên tổ và ban cho các ngài ân sủng cùng đức công chính nguyên thủy. Sau khi hai ông bà phạm tội, Ngài đã nâng các ngài lên bằng lời hứa ơn cứu độ và tiếp tục săn sóc nhân loại (54-55).
- Sau trận Ðại Hồng Thủy, Thiên Chúa lập Giao Ước với ông Noe.Ngài chia con người ra thành nhiều dân tộc với ngôn ngữ khác biệt để giới hạn tội kiêu ngạo của bản tánh loài người. Giao Ước với ông Noe vẫn có hiệu lực cho Dân Ngoại cho đến khi Tin Mừng được loan báo khắp thế gian (56-58).
- Thiên Chúa chọn ông Abram và ông đã đáp lại. Ngài đổi tên ông là Abraham, và hứa cho ông thành tổ phụ của nhiều dân tộc (59-61).
- Thiên Chúa Hình Thành Dân Israel.Thiên Chúa chọn dân Israel làm Dân Riêng của Ngài. Khi dân Israel làm nô lê tại Ai Cập, Ngài đã tuyển chọn ông Môsê để giải phóng họ, đã thiết lập Giao Ước với họ, và ban cho họ Mười Ðiều Răn để họ nhận biết Ngài và phụng sự Ngài như một Thiên Chúa hằng sống, chân thật và duy nhất. Qua các ngôn sứ, Ngài đã nuôi dưỡng họ trong đức tin, và trong niềm hy vọng Cứu Ðộ qua một Giao Ước Mới được viết trong lòng họ (59-64).
Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Trung Gian và viên mãn của tất cả Mặc Khải (65-73).
Mặc Khải Công và Mặc Khải Tư
Qua Ðức Kitô, Thiên Chúa đã hoàn tất công việc mặc khải của Ngài. Sau Chúa Giêsu và các Thánh Tông Ðồ thì không còn một mặc khải công khai nào nữa. Tất cả các mặc khải tư và thị kiến đều phụ thuộc vào Mặc Khải của Thiên Chúa qua Ðức Kitô. Chúng không bổ túc, nhưng giúp chúng ta sống trọn vẹn Mặc Khải chính này.
Việc Lưu Truyền Mặc Khải Của Thiên Chúa
“Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý”, tức là “nhận biết Chúa Giêsu Kitô”. Mặc Khải này được truyền lại cho chúng ta trong Hội Thánh qua các Thánh Tông Ðồ và những người kế vị các ngài. (74)
Truyền Thống các Tông Ðồ (75-79)
Khi Chúa Kitô xuống trần, Người không viết sách về giáo huấn của Người, nhưng tuyển chọn các môn đệ, đặc biệt là 12 Tông Đồ, để “các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” (Mc 3:14). Trong thời gian ba năm “ở với Người”, các Tông Đồ không những được Chúa dạy dỗ riêng về giáo huấn của Người, mà còn học cách sống của Người và chia sẻ buồn vui với Người như “bạn hữu” thân tình (x. Ga 15:14-15). Trước khi về trời, Chúa Kitô truyền cho các Tông Ðồ rao giảng Tin Mừng cho toàn thể nhân loại (x. Mc 16:15; Mt 28:19-20). Tin Mừng này là nguồn gốc của mọi chân lý cứu độ và quy luật luân lý. Các Tông Ðồtruyền lại Tin Mừng các ngài nhận được bằng hai cách,
- truyền khẩu qua lời giảng dạy,
- bằng văn tự qua Thánh Kinh.
Các ngài trao nhiệm vụ này lại cho các giám mục là những người kế vị các ngài trong việc lưu truyền những giáo huấn của Ðức Kitô.
Thánh Truyền là Sự lưu truyền sống động này được hoàn thành nhờ Chúa Thánh Thần, và được truyền lại cách không gián đoạn cho đến tận thế, được gọi là Thánh Truyền.
Liên quan giữa Thánh Kinh và Thánh Truyền (80-83)
Thánh Kinh và Thánh Truyền có chung một nguồn là Thiên Chúa. Cả hai đều làm cho mầu nhiệm Ðức Kitô được hiện diện và sinh hoa kết quả trong Hội Thánh. Nhưng hai cách lưu truyền thì khác nhau.
- Thánh Kinh là Lời Chúa được ghi lại dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần.
- Thánh Truyền là trọn vẹn Lời Chúa mà Ðức Kitô và Chúa Thánh Thần đã trao phó cho các Tông Ðồ, và truyền lại trọn vẹn cho những người kế vị các ngài. Nhờ Thần chân lý soi sáng, các ngài trung thành gìn giữ, trình bày và phổ biến Lời ấy bằng việc rao giảng. (x. DV 9).
Ngoài Thánh Truyền, còn có các “truyền thống” thần học, kỷ luật, phụng vụ hoặc thờ phượng. Những truyền thống này có thể thay đổi, nhưng Thánh Truyền thì không thay đổi được.
Việc giải thích Gia Tài Ðức Tin (84-100)
Thánh Kinh và Thánh Truyền hợp thành một Kho Tàng Đức Tin, và được các Tông Ðồ trao phó cho toàn thể Hội Thánh để giữ gìn và truyền lại cho đến tận thế. Nhiệm vụ giải thích cách trung thực Lời Chúa đã được viết ra hay lưu truyền được ủy thác cho Huấn Quyền sống động của Hội Thánh, nhân danh Đức Kitô. Huấn quyền là các giám mục hiệp thông với ĐTC. Huấn Quyền chỉ dạy những gì đã được truyền lại mà thôi. Chúng ta có nhiệm vụ vâng phục Huấn Quyền như Chúa Giêsu đã truyền trong Luca 10:16.
Khi những chân lý thiết yếu được Huấn Quyền long trọng công bố như là các tín điều, thì tất cả dân thánh phải tin. Toàn thể tín hữuđược đồng chia sẻ sự hiểu biết và sử dụng các tín điều và những chân lý khác được Chúa mặc khải. Hơn nữa, toàn thể tín hữu không thể sai lầm trong đức tin khi họ cùng với các Ðức Giám Mục “đều đồng ý về những chân lý liên quan đến đức tin và luân lý”.
Nhờ Chúa Thánh Thần, sự hiểu biết về đức tin có thể gia tăng trong đời sống Hội Thánh nhờ việc các tín hữu suy niệm, học hỏi và nghiên cứu thần học, và cảm nghiệm và sống Lời Chúa.
Ơn Bất Khả Ngộ
Không phải bất cứ điều gì Đức Giáo Hoàng nói đều không sai lầm. Hội Thán phân biệt giáo huấn ngoại thường và giáo huấn thông thường của Huấn Quyền.
Giáo huấn ngoại thường có thể xảy ra dưới hai hình thức
- Đức Giáo Hoàng ngồi trên toà Thánh Phêrô và long trọng tuyên bố một tín điều buộc mọi người trong Hội Thánh phải tin.
- Giám mục đoàn, khi các ngài thực thi Huấn quyền tối thượng cùng với vị kế nhiệm thánh Phêrô”, nhất là trong một Công đồng chung. Khi các ngài dùng Huấn quyền tối thượng để “dạy phải tin một điều gì như là do Thiên Chúa mạc khải” và như là giáo huấn của Đức Kitô, thì người ta “phải gắn bó với những xác quyết đó bằng sự vâng phục của đức tin”.
Đó là hai loại giáo huấn bất khả ngộ.
Giáo huấn thông thường là giáo huấn của Đức Giáo Hoàng hay các Giám Mục hiệp thông với ngài một cách thông thường như trong các bài giảng, các thư từ như thư luân lưu của Giám Mục, Tự Sắc, Tông Thư, Tông Huấn, Thông Điệp của Đức Giáo Hoàng… Tất cả các giáo huấn này đều có thể sai lầm, nhưng vẫn được gọi là giáo huấn xác thực, trừ trường hợp giáo huấn thông thường phổ quát.
Giáo huấn thông thường phổ quát là giáo huấn được các Giám Mục hiệp thông với Đức Giáo Hoàng, tuy không họp lại, nhưng dạy cùng một điều ở khắp nơi trên thế giới và qua mọi thời đại. Trong trường hợp này chỉ cần Đức Giáo Hoàng quả quyết rằng ngài dùng quyền của Đấng Kế Vị Thánh Phêrô mà xác quyết một điều nào đó là không thay đổi được thì giáo huấn ấy trở thành bất khả ngộ, như trường hợp cấm dùng các phương pháp ngừa thai nhân tạo trong Thông Điệp Humanae Vitae của Thánh Phaolô VI, hay việc không thể truyền chức linh mục cho phụ nữ được trong Tông Thư Ordinatio Sacerdotalis (1994) của Thánh Gioan Phaolô II
Thánh Kinh
Ðức Kitô, Lời Duy Nhất của Thánh Kinh (101-104)
Đối với người Tin Lành, Thánh Kinh là Lời duy nhất của Thiên Chúa. Còn đối với người Công Giáo, Thánh Kinh chỉ là Lời Chúa được các Thánh Ký viết thành văn tự như đã nói ở trên. Thiên Chúa đã dùng ngôn ngữ loài người mà mặc khải cho ta qua Thánh Kinh, như xưa Ngôi Lời đã trở nên con người để nói với ta.
Linh hứng, Chân Lý và tác giả của Thánh Kinh (105-109)
Thiên Chúa linh hứng các thánh ký để dùng tất cả khả năng và sự hiểu biết của các ngài mà viết Thánh Kinh, nên các ngài là tác giả các sách các ngài viết, nhưng Thiên Chúa cũng chính là tác giả của Thánh Kinh. “Thánh Kinh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm, những chân lý mà Thiên Chúa đã muốn Thánh Kinh ghi lại để cứu độ chúng ta”. Tuy vậy, đức tin Kitô giáo không phải là một “đạo Sách” mà là đạo của “Lời Chúa”, Ngôi Lời Nhập Thể và hằng sống. Chính nhờ Chúa Thánh Thần mà chúng ta hiểu được Thánh Kinh.
Chúa Thánh Thần, Ðấng giải thích Thánh Kinh (109-119)
Trong Thánh Kinh, Thiên Chúa nói với ta bằng cách thức của loài người, nên chúng ta phải lưu tâm đến các chủ ý, hoàn cảnh thời đại và văn hóa của các tác giả, cũng như các văn thể họ dùng, và sự diễn đạt tư tưởng của họ trong văn nói cũng như văn viết.
Vì “Thánh Kinh đã được viết ra bởi Chúa Thánh Thần nên cũng phải được đọc và giải thích trong Chúa Thánh Thần”. Và Thánh Kinh được ban cho Hội Thánh, nên Thánh Kinh chỉ được giải thích cách xác thực trong Hội Thánh. CĐ Vaticanô II đưa ra ba tiêu chuẩn để giải thích Thánh Kinh:
- Phải chú ý đến “nội dung và tính thống nhất của toàn bộ Thánh Kinh “
- Phải đọc Thánh Kinh trong “Truyền thống sống động của toàn thể Hội Thánh”.
- Phải lưu ý đến “loại suy đức tin,” là tính chất tương hợp trong toàn bộ nội dung các chân lý đức tin và trong toàn bộ chương trình mặc khải.
Các Nghĩa của Thánh Kinh
Hội Thánh cũng phân biệt các nghĩa mà theo đó Thánh Kinh có thể được giải thích:
- Nghĩa văn tự là nghĩa mà tác giả có ý nói đến.
- Nghĩa thiêng liêng có thể là
- nghĩa ẩn dụ trong đó một biến cố ám chỉ một biến cố khác, hay là
- nghĩa luân lý để dẫn chúng ta đến một cách ăn ở công chính.
- Cũng có thể có nghĩa dẫn đường, hướng chúng ta về cùng đích trên Trời.
Sau hết mọi điều liên hệ đến việc giải thích Thánh Kinh đều phải tùy thuộc vào phán quyết của Hội Thánh, vì Hội Thánh được Thiên Chúa trao phó cho sứ mạng và chức vụ gìn giữ và giải thích Lời Chúa.
Quy Ðiển Thánh Kinh (120-130)
Quy điển Thánh Kinh, là danh sách những sách mà Hội Thánh công nhận là được Chúa Thánh Thần linh hứng, gồm có 46 sách Cựu Ước và 27 sách Tân Ước.
- Cựu Ướcmặc dầu chứa đựng nhiều điều bất toàn và tạm thời, nhưng hướng về Ðức Kitô.
- Tân Ướcđặt trọng tâmvào giáo huấn và cuộc đời của Ðức Kitô và vào Hội Thánh Sơ Khai dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Các Tin Mừng là trung tâm của tất cả Thánh Kinh vì là chứng từ chính về cuộc đời và giáo huấn của Ngôi Lời Nhập Thể. Tin Mừng được thành hình qua ba giai đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất là đời sống và giáo huấn của Chúa Giêsu.
- Giai đoạn thứ hai là truyền khẩu qua lời giảng dạy của các Tông Ðồ và những môn đệ đầu tiên dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
- Giai đoạn thứ ba là viết các Sách Tin Mừng, khi các Thánh Sử thu góp tài liệu về Chúa Giêsu và thích nghi với hoàn cảnh của giáo đoàn mà tác giả nhằm đến.
Sự Liên Hệ giữa Cựu Ước và Tân Ước
Cựu Ước và Tân Ước liên hệ mật thiết với nhau. Các biến cố và nhân vật trong Cựu Ước là tiền thân của những biến cố và hình ảnh trong Tân Ước. “Tân Ước tàng ẩn trong Cựu Ước, Cựu Ước tỏ lộ trong Tân Ước”(Th. Augustinô). Vì thế Tân Ước phải được đọc dưới ánh sáng của Cựu Ước, và Cựu Ước phải được đọc dưới ánh sáng của Ðức Kitô chịu đóng đinh và phục sinh.
Thánh Kinh trong đời sống Hội Thánh (131-141)
Hội Thánh luôn tôn kính Thánh Kinh như tôn kính Thánh Thể, vì như Thánh Thể, Lời Chúa còn có sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Hội Thánh, ban sức mạnh đức tin, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Hội Thánh. Vì thế Hội Thánh “tha thiết và đặc biệt khuyến khích mọi Kitô hữu “hãy năng đọc Thánh Kinh để học biết kiến thức siêu việt của Chúa Giêsu Kitô… “Vì không biết Thánh Kinh là không biết Ðức Kitô” (Thánh Giêrônimô).
CÁC BÀI ĐỌC THÊM
- Giáo Lý về Mặc Khải
- Thuyết Duy Thánh Kinh (Sola Scriptura) và các truyền thống Tin Lành
- Ý Nghĩa và Tầm Quan trọng của Thánh Truyền\
Các câu hỏi để suy nghĩ và thảo luận
- Lời Chúa là gì?
- Việc phân biệt giữa Thánh Truyền và truyền thống có ý gì?
- Giải thích cách tác giả so sánh Hội Thánh như một gia đình và nó có ý làm sáng tỏ điều gì về ý nghĩa của việc phát triển Thánh Truyền?
- Giải thích câu: “Thánh Truyền hàm ý thay đổi trong sự liên tục với quá khứ” có ý nói gì?
- “Mặc Khải” của Thiên Chúa là gì?
- Điều gì đảm bảo các nội dung của Mặc Khải của Thiên Chúa qua mọi thời đại?
- Sự liên hệ giữa Huấn Quyền và truyền thống các Tông Đồ là gì?
- Sự liên hệ giữa Huấn Quyền và Thánh Kinh là gì?
- Nấc Thang Chân Lý là gì?
- Huấn Quyền là gì? Ai tham gia vào hoạt động của Huấn Quyền?
- Dưới những điều kiện nào thì giáo huấn của Huấn Quyền là không sai lầm?
- Giáo huấn có thể sai lầm của huấn quyền còn được gọi là giáo huấn gì? Các tín hữu phải đáp trả với những giáo huấn ấy như thế nào?