Bài 3 – Sự Sống Lại của Thân Xác và Độc Thân vì Nước Thiên Chúa

Current Video

Xin đọc phần tiếng Việt Nam sau phần tiếng Anh.

In this lesson, we will discuss two topics:

  1. The Resurrection of the Body
  2. Christian Virginity and Celibacy for the Kingdom of God

Please read the above links and the following video and answer the following questions before you come to this class.

  1. What do you expect in the life to come?
  2. Are you sinning if you wish to unite to your ex-lover in heaven?
  3. Why celibacy is important for priests and religious in the Catholic Church?

Hôm nay chúng ta sẽ học về hai chủ đề:

  1. Sự Sống Lại của Thân Xác
  2. Độc thân vì Nước Thiên Chúa.

Làm ơn coi hai videos và đọc bài dưới đây và trả lời ba câu hỏi sau trước khi đến lớp:

  1. Bạn mong ước gì ở sự sống đời sau?
  2. Bạn có tội không khi mong được kết hợp với người yêu cũ ở đời sau?
  3. Tại sao độc thân lại quan trọng với các linh mục và tu sĩ Công Giáo?
Con Người Thời Cánh Chung – Phục Sinh Của Thân Xác – Phó Tế Đàm Hữu Thư

Con Người Thời Cánh Chung – Phục Sinh Của Thân Xác – Phó Tế Đàm Hữu Thư
Ơn Gọi Độc Thân – Phó Tế Đàm Hữu Thư

Hai chủ đề của lớp học hôm nay là

  1. Sự Sống Lại của Thân Xác
  2. Sự Độc Thân vì Nước Thiên Chúa.

Dưới đây là tóm lược hai chu kỳ về Sự Sống lại (bài 64 đến 72) và Sự Đồng Trinh và Độc Thân vì Nước Thiên Chúa của Kitô hữu (bài 73-86) được dịch từ website Human Life International.

I. Sự Sống Lại Của Thân Xác

Trong bài trước, chúng ta đã thảo luận về chủ đề sự trong sạch của tâm hồn như đã được đề cập trong chu kỳ thứ hai của bài giáo lý (24-63) của Thánh Gioan Phaolô II về thần học thân xác. Bài này tiếp tục với chu kỳ thứ ba của bài giáo lý của Đức Thánh Cha (64-72) về chủ đề sự sống lại của thân xác.

Bài viết sẽ bao gồm:

  1. Tại sao sự sống lại của thân xác là chủ đề của chu kỳ thứ ba
  2. Chúa Giêsu tiếp cận giáo huấn này thế nào
  3. Chúa Giêsu thực sự dạy gì về sự sống lại của thân xác
  4. Tại sao người nam và người nữ sẽ không kết hôn trong sự phục sinh cuối cùng
  5. Làm thế nào giáo huấn của Thánh Phaolô về sự sống lại bổ sung cho giáo huấn của Chúa Giêsu

1. Tại sao sự sống lại của thân xác là chủ đề của chu kỳ thứ ba?

Trong bài trước, chúng ta đã thảo luận về sự trong sạch của tâm hồn. Như chúng tôi đã vạch ra, tâm hồn đại diện cho nội tâm của con người, trung tâm của linh hồn, chiều kích nội tâm và tâm linh của một người. Bây giờ là lúc thảo luận về chiều kích vật chất của con người: thân xác của con người.

Xin nhắc lại rằng theo giáo huấn của Hội Thánh Công giáo mà Thánh Gioan Phaolô II tuân theo, con người là một tổng hợp cơ bản của thân xác và linh hồn (xem GLCG 362-368). Thân xác con người là một phần nội tại của con người.

Như đã trình bày trong bài trước, Chúa Giêsu đến để dạy chúng ta một đặc tính của tâm hồn con người: một tập hợp các giá trị và nhân đức giúp tâm hồn được trong sạch. Trong bài này, chúng ta tiếp cận các ethos (đặc tính) của thân xác con người mà Chúa Giêsu đã đến để dạy chúng ta. Đặc tính này của thân xác được liên kết với giáo huấn của Thánh Phaolô về việc cứu chuộc thân xác mà Chúa Giêsu cũng đã đến để hoàn thành cho chúng ta. Nếu chúng ta sống theo những giáo huấn của Chúa Giêsu về các đặc điểm của tâm hồn và thân xác, thì dưới quyền năng của ân sủng cứu chuộc của Ngài, chúng ta sẽ trở thành con người mới mà Ngài muốn chúng ta trở thành.

Thân xác con người được sống lại trên Thiên đàng là sự hoàn thành việc cứu chuộc thân xác mà chúng ta phải thực hiện nhờ ân sủng của Thiên Chúa ở đây dưới thế trần. Do đó, cũng như tình trạng vô tội nguyên thủy giúp chúng ta biết rõ mình phải là những người nam và người nữ nào, thì sự sống lại trong tương lai của thân xác, mà vinh quang của nó tương tự như thân xác đã phục sinh của chính Chúa Giêsu, làm rõ cách chúng ta phải sống ơn cứu chuộc. của thân xác chúng ta ở đây trên thế gian như ra sao.

2. Chúa Giêsu tiếp cận giáo huấn của Người về sự sống lại của thân xác như thế nào?

Như trong trường hợp giáo huấn của Chúa Giêsu về sự kết hợp và bất khả phân ly của hôn nhân, giáo huấn của Người về sự sống lại của thân xác đã được đưa ra trong bối cảnh một cuộc tranh luận với một số nhà lãnh đạo tôn giáo của Israel đồng thời với Người. Nhưng trong trường hợp này, là cuộc tranh luận với người Xađốc. Không giống như người Pharisêu, người Xađốc không tin vào sự sống lại của thân xác con người. Họ chỉ công nhận năm cuốn sách đầu tiên của Thánh Kinh: Sáng thế, Xuất hành, Lêvi, Dân số và Đệ Nhị Luật, là sách thánh. Theo họ, những cuốn sách này không dạy bất cứ điều gì về sự sống lại.

Cuộc tranh luận được thuật lại trong Mathêu 22: 24-30, Marcô 12: 18-27 và Luca 20: 27-40. Cả ba bản văn hầu như giống hệt nhau, ngoại trừ Tin Mừng Luca thì hoàn chỉnh hơn. Đó là lý do tại sao đây sẽ là đoạn văn mà chúng tôi sẽ trích dẫn làm văn bản chính cho toàn bộ chu trình này:

Một số người Xađốc cho rằng không có sự sống lại, đã đến gần Chúa Giêsu và hỏi Ngài rằng: “Thưa Thầy, Môi-se đã viết cho chúng tôi rằng: Nếu anh trai của một người người nam chết mà không có con, thì người người nam phải cưới bà góa để nuôi con cho anh mình. Vậy thì, có bảy anh em. Người thứ nhất, lấy một người vợ, chết không con. Người thứ hai và sau đó người thứ ba kết hôn với góa phụ. Và cả bảy người cũng vậy, họ chết không để lại con cái. Cuối cùng, chính người phụ nữ đã chết. Bây giờ, khi sống lại, cô ấy sẽ là vợ của ai vì cô ấy đã kết hôn với tất cả bảy người? ” Chúa Giêsu đáp: “Con cái thế gian này lấy vợ lấy chồng, nhưng những ai được xét đoán xứng đáng ở thế giới bên kia và từ kẻ chết sống lại thì không lấy vợ vì không chết được nữa, vì giống như các thiên sứ  và là con cái của sự sống lại, họ là con cái của Thiên Chúa. Và Môi-se cho thấy kẻ chết sống lại, trong đoạn nói về bụi rậm, nơi ông gọi Chúa là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của Y-sác và Thiên Chúa của Gia-cốp. Bây giờ Ngài là Thiên Chúa, không phải của kẻ chết, nhưng của kẻ sống; vì đối với Ngài tất cả mọi người đều sống. ” Một số luật sĩ sau đó đã lên tiếng.

Người Xađốc cố gắng chế nhạo học thuyết về sự sống lại bằng một trường hợp kỳ quặc. Nhưng Chúa Giêsu cho họ thấy rằng họ đã sai khi trích dẫn đoạn văn trong Xuất Hành 3: 6, một trong những cuốn sách mà người Xađốc tin là được Thiên Chúa linh hứng.

Trong Tin Mừng Thánh Matthêu, Chúa Giêsu nói với những người Xađốc rằng họ đã sai về hai điều:

  1. Họ không biết Thánh Kinh (họ hiểu rất hời hợt về Lời Chúa).
  2. Họ không biết quyền năng của Thiên Chúa (điều cần thiết để hiểu Thánh Kinh một cách chính xác). Bằng cách coi thường quyền năng của Thiên Chúa, họ thậm chí còn phủ nhận chính khả năng sống lại.
Resurrection (Luca Giordano)

3. Chúa Giêsu dạy gì về sự sống lại của thân xác trong những đoạn này?

Trước hết, theo Luca 20:38, khi Chúa Giêsu nói rằng “Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống, vì mọi người đều sống với Ngài” (không có trong hai bản còn lại), Người đang dạy về sự bất tử của linh hồn, vì sự sống lại cuối cùng vẫn chưa diễn ra. Nhưng người Xađốc cũng không tin vào giáo thuyết này.

Kết hợp ba đoạn văn, Chúa Giêsu dạy rằng người nam và người nữ sẽ tiếp tục là nam và nữ khi sống lại. Giáo huấn này một lần nữa nhấn mạnh sự thật rằng thân xác con người, bao gồm cả giới tính của nó, thực sự là nội tại của con người và không bị coi thường ở thế giới bên kia. Ngược lại, linh hồn và thạn xác sẽ kết hợp hơn bao giờ hết.

Quan điểm của Kitô giáo về sự cứu rỗi không phải là linh hồn phải “thoát khỏi” thân xác. Thân xác không phải là “nhà tù” của linh hồn (như Plato và các triết gia cổ đại khác đã tin sai). Ngược lại, quan điểm của Kitô hữu về đạo đức và về sự cứu rỗi là sự kết hợp ngày càng gia tăng giữa thân xác và linh hồn.

Khi người Kitô hữu tiến triển trong đời sống luân lý – là con đường dẫn đến sự cứu rỗi – thân xác của họ có thể phục tùng linh hồn của họ và linh hồn của họ phục tùng Chúa Thánh Thần. Sự phục tùng của thân xác này hoàn toàn không có nghĩa rằng thân xác là một cái gì đó tiêu cực. Khác xa với điều đó, chính trong sự tự do phục tùng này, thân xác trở nên chính mình hơn bởi vì nó được làm cho sống động bởi một linh hồn đầy Thánh Thần.

Toàn thể con người sống dưới quyền năng của Chúa Thánh Thần hoàn thành việc cứu chuộc cả thân xác lẫn linh hồn, cũng như sự hội nhập hoàn hảo của họ vào thế giới sắp đến và vào sự sống lại cuối cùng của thân xác.

Trong tình trạng sống lại, cả thân xác và linh hồn sẽ được thần hóa. Điều này có nghĩa là cả hai sẽ được Thiên Chúa ban cho vinh quang bằng cách được thông phần vào Vinh Quang của Thiên Chúa, trong sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Một cách nói khác là toàn thể con người sẽ được Thiên Chúa thần hóa. Đặc biệt, thân xác con người sẽ đạt đến sự hoàn hảo về ý nghĩa cá nhân và ý nghĩa phối ngẫu.

Giáo huấn về sự thần hóa và tinh thần hóa của con người trong thế giới sắp tới có thể được suy ra từ Luca 20:36: ¨ Họ sẽ giống như các thiên thần.” Rõ ràng từ những gì Chúa Giêsu dạy về sự sống lại của thân xác con người, con người sẽ không mang bản chất thiên thần mà sẽ vẫn là con người, nhưng ở trong tình trạng vinh hiển của cả thân xác lẫn linh hồn.

Tình trạng cuối cùng này của con người sẽ trổi vượt so với tình trạng vô tội nguyên thủy. Người nam và người nữ trong tình trạng vô tội nguyên thủy được mời gọi bước đi với Thiên Chúa và cuối cùng sẽ đạt đến tình trạng được tôn vinh này. Tội nguyên tổ đã vô hiệu hóa lời mời gọi này, nhưng Chúa Giêsu đã đến để khôi phục nó và giúp người nam và người nữ đạt được nó.

Adam and Eve (Jacob Jordaens)

4. Nhưng Chúa Giêsu dạy rằng trong sự sống lại cuối cùng, người nam và người nữ sẽ không kết hôn?

Giáo huấn của Chúa Giêsu về việc người nam và người nữ không còn kết hôn sau khi sống lại không phải là để hạ thấp giá trị hôn nhân. Đơn thuần là hôn nhân chỉ xảy ra ở cuộc đời này thôi. Một khi vai trò của nó đã hoàn thành, thì sẽ không cần phải tiếp tục nó ở thế giới bên kia nữa.

Cũng không nên giải thích giáo huấn này bằng cách cho rằng hôn nhân chỉ để sinh sản. Theo quan điểm này, một khi số loài người mà Thiên Chúa dự định tạo ra đã hoàn thành, thì hôn nhân không cần thiết nữa. Nhưng Chúa Giêsu không dạy điều đó. Chúng ta đã thấy trong các bài trước Chúa Giêsu đánh giá cao sự kết hợp của người nam và người nữ trong hôn nhân như thế nào.

Điểm chính của giáo huấn của Chúa Giêsu là tình trạng sống lại cuối cùng của con người là tình trạng đồng trinh. Và lý do cho điều này là sự kết hợp của con người với Thiên Chúa sẽ sâu xa đến mức không cần sự kết hợp nào khác; Tình yêu của Thiên Chúa sẽ hoàn toàn lấp đầy tâm hồn và thân xác của con người.

Nhưng điều này không có nghĩa là mỗi người sẽ quên đi những người thân yêu của mình từ trần thế. Trái lại, tình yêu được Thiên Chúa đổ đầy của Ngài sẽ giúp mọi người yêu thương và hiệp nhất với người lân cận hơn bao giờ hết, hoàn toàn tự hiến không có bất kỳ ích kỷ nào.

Hôn nhân Kitô giáo, vì là một bí tích, là một dấu chỉ hữu hiệu làm cho sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội thánh của Người được hiện diện (xem Êphêxô 5: 21-33). Nhưng trên Thiên đàng sẽ không cần có sự trung gian của sự kết hợp này với Thiên Chúa nữa vì mỗi người sẽ được kết hợp trực tiếp và hoàn toàn với Thiên Chúa.

Giáo huấn sau này ngụ ý rằng tình trạng đồng trinh hoặc độc thân ở đây trên trần thế cao hơn tình trạng hôn nhân. Sự thật này không liên quan gì đến quan điểm coi tình dục và hôn nhân của con người là thấp kém. Nhưng nó có nghĩa là hôn nhân Kitô giáo, vì là một dấu chỉ bí tích, nên là trung gian giữa các cặp vợ chồng và Thiên Chúa. Nhưng trong đời sống thánh hiến, con người đang sống trong sự mong đợi sự kết hợp trực tiếp này với Thiên Chúa trong tình trạng đồng trinh, mà không cần bất kỳ trung gian nào.

Ba nữ tu Saint Paul ở Cửa nhà thờ (Armand Gautier)

5. Thánh Phaolô đã dạy gì về sự sống lại và giáo huấn của ngài bổ túc cho giáo huấn của Chúa Giêsu như thế nào?

Giáo huấn của Chúa Giêsu về sự sống lại đã tác động sâu xa đến Thánh Phaolô. Chính vị Tông đồ Dân ngoại đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh trong khi ngài đang bắt bớ các Kitô hữu (xem Công vụ Tông đồ 9: 26-27).

Giáo huấn của Thánh Phaolô về sự sống lại chủ yếu nằm trong 1 Côrinthô 15: 3-57. Ngài dạy rằng sự Phục sinh của Đức Kitô là nền tảng đức tin của chúng ta (xem câu 17-20) và việc chiến thắng sự chết của Thiên Chúa (xem câu 26 và 54-55).

Thánh Phaolô đã dạy về thân xác con người được sống lại bằng cách tương phản nó với thân xác con người trần thế (xem các câu 35-55). Cụ thể hơn, ngài gọi thân xác sống lại là một thuộc về thiên giới hoặc có thần khí, và thân xác dưới thế là một thân xác thế trần. Ngài không khinh thường thân xác con người trần thế khi sử dụng các thuật ngữ có vẻ coi thường, chẳng hạn như “hay hư nát” và “gieo xuống thì hư nát và hèn hạ” (câu 42 và 43). Ngược lại, ngài chỉ đơn thuần vạch ra rằng thân xác trần thế của chúng ta không ở trạng thái cuối cùng mà sẽ được biến đổi sang tình trạng được tôn vinh hoặc thiêng liêng hóa không thể tưởng tượng được. Cả thân xác và linh hồn sẽ được Thiên Chúa làm cho hiển vinh.

Thánh Phaolô không phải là người theo thuyết nhị nguyên, một người phủ nhận sự hợp nhất giữa thân xác và linh hồn trong con người. Cái nhìn toàn diện của ngài về con người không chỉ được thể hiện rõ ràng trong chương này, nơi Ngài nhấn mạnh về sự sống lại cuối cùng của thân xác, mà còn ở việc ngài dùng hình ảnh của thân xác con người để minh họa cho sự hiểu biết của ngài về Hội Thánh như thân mình của Đức Kitô (chẳng hạn như trong 1 Côrinthô 12: 12-27).

Thực ra, ngài đã đi quá tình trạng vinh quang của thân xác con người được sống lại và nói thêm rằng toàn thể thụ tạo vật chất cũng sẽ được vinh quang:

“Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người. Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên, vẫn còn niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang. Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng: chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa.” (Rôma 8: 19-23).

Theo cách này, giáo huấn của Thánh Phaolô về sự sống lại gắn liền với giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô và đồng thời bổ túc cho giáo huấn ấy.

* * * * *

Sự Đồng Trinh và Độc thân của Kitô hữu vì Nước Thiên Chúa

Trong bài trước, chúng tôi đã đưa ra một suy tư ngắn gọn và đơn giản về sự sống lại của thân xác như được dạy trong chu kỳ giáo lý thứ ba (64-72) của Thần Học Thân Xác của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Trong bài này, chúng ta sẽ tiếp tục những suy tư này, chuyển sang chu kỳ thứ tư của bài giáo lý của Đức Thánh Cha (73-86), trong đó đề cập đến sự đồng trinh và độc thân của Kitô hữu vì Nước Thiên Chúa.

Bài này sẽ bao gồm:

  1. Tại sao đồng trinh và độc thân của Kitô hữu là chủ đề của chu kỳ thứ tư
  2. Chúa Giêsu tiếp cận giáo huấn này ở đâu trong các sách Tin Mừng
  3. Ơn gọi khiết trinh hay độc thân có phải là một điều răn không?
  4. Tại sao các môn đệ ngạc nhiên khi Chúa Giêsu nói với họ về ơn gọi mới này
  5. Mối quan hệ giữa ơn gọi hôn nhân và đời sống tu trì
  6. Tại sao sự đồng trinh hay độc thân vì Nước Thiên Chúa lại ưu việt hơn bí tích hôn phối.

1. Tại sao đồng trinh và độc thân của Kitô hữu là chủ đề của chu kỳ thứ tư?

Trong bài trước, chúng ta đã bàn đến giáo huấn của Chúa Giêsu về sự sống lại của thân xác. Như chúng tôi đã vạch ra, sự sống lại của thân xác làm sáng tỏ mặc khải của Thiên Chúa về thân xác con người. Học thuyết này chỉ cho con người đang sống trên thế gian này số phận cuối cùng của họ sẽ là gì. Niềm hy vọng đạt được cùng đích đó, sự viên mãn của sự cứu chuộc thân xác, thúc đẩy con người dần dần hoàn thành công việc, với ân sủng của Thiên Chúa, sự cứu chuộc thân xác của mình trong cuộc sống này, sự viên mãn sẽ được hoàn thành trên Thiên đàng.

Trong chu kỳ thứ hai của giáo huấn của Thánh Gioan Phaolô II, trước bài sự sống lại của thân xác, chúng ta đã đề cập đến giáo huấn của Chúa Giêsu về sự trong sạch của tâm hồn. Tâm hồn là trung tâm của đời sống nội tâm của con người, là trung tâm của linh hồn, nơi người đó quyết định làm theo hay chống lại Thiên Chúa. Do đó, chủ đề về sự trong sạch của tâm hồn làm sáng tỏ mặc khải của Thiên Chúa về linh hồn con người, đặc biệt là về cách họ phải sử dụng các sức mạnh thiêng liêng của mình (trí tuệ và ý chí) để làm theo thánh ý Thiên Chúa.

Cho đến nay, chúng tôi đã trình bày giáo huấn của Thánh Gioan Phaolô II về con người nói chung, một hữu thể tổng hợp của thân xác và linh hồn, đó là giáo huấn của chính Đức Kitô. Hơn nữa, giáo huấn này cho thấy con người phải sống thế nào để mai ngày thân xác và linh hồn được sống lại và được Chúa Thánh Thần tôn vinh cả thân xác lẫn linh hồn.

Chủ đề hợp lý tiếp theo là giáo huấn của Chúa Giêsu về việc sống ơn gọi hoặc lời mời gọi của Thiên Chúa là yêu thương như chính Chúa Giêsu đã làm để đạt được ơn cứu chuộc trọn vẹn trong cuộc sống tương lai. Chúa Giêsu mời gọi mọi Kitô hữu yêu mến Người và tha nhân như chính mình. Theo giáo huấn của Chúa Giêsu, Hội Thánh Công giáo luôn dạy rằng tình yêu của Kitô hữu có thể được thể hiện qua hai ơn gọi (sự kêu gọi của Thiên Chúa):

  1. Hôn nhân
  2. Đồng trinh và độc thân vì Nước Thiên Chúa, bao gồm các giám mục, linh mục và tu sĩ.

Trong hai điều này, Thánh Gioan Phaolô II đề cập trước hết đến việc đồng trinh và độc thân vì nó theo sau một cách hợp lý hơn chủ đề về sự sống lại của thân xác mà ngài vừa đề cập đến. Hãy nhớ lại rằng con người được sống lại sẽ ở trong tình trạng hay bậc đồng trinh. Bậc đồng trinh sẽ là bậc cuối cùng của con người bởi vì sự kết hợp của một người với Thiên Chúa sẽ trọn vẹn đến nỗi người ấy sẽ không cần bất cứ sự kết hợp nào khác.

Như chúng tôi đã giải thích, điều này không có nghĩa là trong thế giới tương lai, con người cũng không được kết hợp với anh chị em của mình trong Chúa, những người cũng đã sống lại. Thực ra, Tình yêu của Thiên Chúa mà con người sẽ trải qua sẽ tràn ngập trong tình yêu trinh nguyên của mình dành cho người khác. Hơn nữa, trong tình trạng phục sinh, thân xác con người sẽ đạt được ý nghĩa viên mãn của nó, đó là diễn tả trọn vẹn và hoàn hảo trong thân xác của mình tình yêu trong sạch, khiết trinh chứa đựng trong tâm hồn con người nhờ sự kết hợp của họ với Thiên Chúa.

Một khi Thánh Gioan Phaolô II thảo luận về sự đồng trinh và độc thân, ngài đặt tiền đề cho hai chu kỳ tiếp theo và chu kỳ cuối cùng của bài giáo lý về thần học thân xác. Hai chu kỳ này tương ứng với Bí tích Hôn nhân (chu kỳ 5) và tình yêu và khả năng sinh sản (chu kỳ 6). Hai chu kỳ cuối cùng này cũng đi theo một cách hợp lý như tất cả các chu kỳ trước, bởi vì, như chúng tôi đã vạch ra, và theo chính Thánh Gioan Phaolô II, thần học về cơ thể của ngài là một bài chú giải rất lớn về Thông điệp tiên tri Humanae Vitae của Thánh Phaolô VI. Các chủ đề trọng tâm của Humanae Vitae là truyền sự sống con người và tình yêu vợ chồng.

2. Chúa Giêsu tiếp cận giáo huấn về đồng trinh và độc thân này ở đâu trong các sách Tin Mừng?

Chúa Giêsu Kitô đã dạy các môn đệ về ơn gọi này ngay sau cuộc tranh luận với người Biệt Phái về tính hợp nhất và bất khả phân ly của hôn nhân (Matthêu 19: 3-9). Khi những người Biệt Phái bỏ đi, các môn đệ hoang mang thưa Người rằng nếu đó là những đặc điểm của hôn nhân thật, thì không đáng để kết hôn! (xem câu 10.)

Chúa Giêsu đáp lại (câu 11-12) trước một cái nhìn bi quan như thế này:

Không phải tất cả mọi người đều có thể nhận được mệnh lệnh này, mà chỉ những người được Thiên Chúa ban. Vì có những người bị hoạn từ thủa mơi sinh và có những bị hoạn vì người ta làm, và có những tự biến mình thành hoạn quan vì nước Thiên đàng. Ai có thể nhận được điều này, hãy để người đó nhận được nó.

Trước hết, Chúa Giêsu không nói rằng một số người bị hoạn vì Nước Trời. Điều đó sẽ là vô lý và mâu thuẫn với giáo huấn của Thánh Kinh ở những nơi khác (xem Êphêxô 5:29 chẳng hạn).

Điểm quan trọng ở đây là: hiểu được bản chất thực sự của cả hôn nhân và đồng trinh hay độc thân là một ân sủng do chính Thiên Chúa ban. Cả hai ơn gọi đều đến từ Thiên Chúa và như vậy, chúng phải được hiểu và chấp nhận không phải ở mức độ thuần túy nhân loại, mà ở cấp độ thiêng liêng — nghĩa là dưới tác động của ân sủng của Thiên Chúa.

Hơn nữa, vì Người dạy về nguồn gốc và bản chất thiêng liêng của cả hai ơn gọi, nên Đức Kitô không đặt chúng chống lại nhau. Những ai được Thiên Chúa mời gọi sống độc thân vì Nước Trời không được làm như vậy vì cái nhìn tiêu cực về hôn nhân, nhưng vì giá trị nội tại của ơn gọi này. Bằng cách này, Chúa Giêsu, một lần nữa nâng cuộc thảo luận lên một cấp độ cao hơn, là cấp độ quan điểm của Thiên Chúa.

Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu

3. Ơn gọi trinh khiết hay độc thân có phải là điều răn do Chúa Giêsu ban cho không?

Không có nó không phải là. Đó là một trong những lời khuyên Tin Mừng mà Chúa Giêsu ban cho một số người, không phải tất cả, và đó là một món quà đặc biệt của Chúa Thánh Thần (hay một “đặc sủng”). Ba lời khuyên Tin Mừng là khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời. Mọi người phải sống ba lời khuyên Tin Mừng ở một mức độ nào đó tùy theo bậc sống của họ.  Những người được Đức Kitô kêu gọi sống đời thánh hiến phải sống ba lời khuyên ở mức độ cao hơn những người đã kết hôn.

Chẳng hạn, những người độc thân và những người được thánh hiến phải sống lời khuyên về sự khiết tịnh trong sự tiết dục, tức là hoàn toàn kiêng quan hệ tình dục. Những người đã kết hôn sống khiết tịnh vợ chồng bằng cách đôi khi thực hành việc tiết dục  theo định kỳ, chẳng hạn, khi họ tránh thai vì những lý do nghiêm trọng. Họ cũng thực hành khiết tịnh vợ chồng khi họ tham gia vào các mối quan hệ vợ chồng để thể hiện tình yêu đích thực của nhau và luôn sẵn sàng đón nhận một cuộc sống mới, nghĩa là khi họ từ chối các biện pháp ngừa thai, triệt sản và phá thai.

Đồng trinh và độc thân vì Nước Thiên Chúa là một ơn gọi đặc biệt, trong khi hôn nhân là một ơn gọi phổ quát hơn. Như chúng tôi đã đưa ra trong bài trước, ơn gọi đặc biệt này là một lời nhắc nhở sống động rằng có một cuộc sống trên trời bên ngoài cuộc sống trần thế này. Đó là một một cuộc sống mong đợi về tương lai và cuộc sống vinh quang, ở đò bậc cuối cùng và dứt khoát của con người sẽ là bậc đồng trinh.

4. Tại sao các môn đệ ngạc nhiên khi Chúa Giêsu nói với các ông về ơn gọi mới này?

Mặc dù các môn đệ đã bỏ tất cả để theo Chúa Giêsu, nhưng các ông vẫn ngạc nhiên trước ơn gọi mới này vì không có gì trong Cựu Ước cho thấy sự hiện hữu của nó. Thực ra, hôn nhân được coi trọng đến mức nó được coi là một loại thánh hiến cho Thiên Chúa.

Ơn gọi đặc biệt về đồng trinh hay độc thân này là một điều gì đó hoàn toàn mới mẻ đối với họ và cũng là đối với toàn thể Dân tộc Israel. Chúa Giêsu đã công khai bắt đầu lời mời gọi đặc biệt này từ Thiên Chúa, cả trong giáo huấn của Ngườii và trong chính con người của Ngườii. (Thật ra, Đức Maria và thánh Giuse cũng đã sống ơn gọi khiết tịnh đặc biệt này vì Nước Thiên Chúa, nhưng các ngài không sống công khai ơn gọi của mình. Mãi về sau, mầu nhiệm Đức Maria và ơn gọi đặc biệt của thánh Giuse mới được tiết lộ cho các môn đệ, và cuối cùng là cho toàn thể Hội Thánh.)

Nhưng Chúa Giêsu vẫn tiếp tục coi trọng hôn nhân, và hơn thế nữa, Người thực sự nâng nó lên phẩm giá của một bí tích, một dấu chỉ hữu hình cho thấy sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa trong Dân Ngài. Chúng ta sẽ mở rộng và đào sâu giáo huấn về hôn nhân bí tích này khi chúng ta thảo luận về chu kỳ giáo huấn tiếp theo của Thánh Gioan Phaolô II.

Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng ơn gọi mới này là hoàn toàn tự nguyện; Việc chấp nhận ơn gọi này đòi hỏi một sự suy nghĩ chín chắn về các động cơ thúc đẩy chính người ấy cũng như những đòi hỏi quan trọng về sự đồng trinh hoặc độc thân đối vì Nước Thiên Chúa. Bằng cách đáp lại ơn gọi này, một người noi gương một cách tỉ mỉ hơn tính cách của Đức Kitô trong sự hiến thân hoàn toàn của Người cho Nước Thiên Chúa.

5. Mối quan hệ giữa ơn gọi hôn nhân và đời sống tu trì là gì?

Cuộc hôn nhân đồng trinh của Đức Maria và Thánh Giuse là một minh chứng sống động về sự soi sáng lẫn nhau của hai ơn gọi. Các ngài phong phú hóa và coi trọng lẫn nhau. Không có gì là bí mật khi các gia đình đông con là cái nôi của ơn gọi tu trì. Không có gì bí mật khi giáo huấn chân chính của các giám mục, linh mục và tu sĩ về phẩm giá và vẻ đẹp của hôn nhân thúc đẩy sự trân trọng sâu xa đối với hôn nhân, đồng thời, về giá trị và phẩm giá không gì sánh được của đời sống thánh hiến. Những ai được mời gọi sống đời thánh hiến càng coi trọng ơn gọi đặc biệt của mình hơn nữa vì họ đang từ bỏ ơn gọi đời sống hôn nhân và gia đình như một điều gì đó cao đẹp, chứ không phải là một điều gì đó thấp hèn hay tội lỗi.

Cả hai ơn gọi đều được Thiên Chúa mời gọi sinh hoa kết quả. Các cặp vợ chồng đã kết hôn được mời gọi rộng lượng mở lòng ra với sự sống. Những đứa con mà họ đưa vào thế gian này bằng cách hợp tác với quyền năng sáng tạo tuyệt vời của Thiên Chúa là món quà quý giá nhất mà Ngài ban cho cuộc hôn nhân của họ. Hơn nữa, sự sinh sản không chỉ kết thúc bằng việc sinh ra những đứa con: các vô chồng, giờ cũng trở thành cha mẹ, có nhiệm vụ chính là giáo dục con cái theo đường lối của Thiên Chúa.

Sự trinh khiết và độc thân cũng được Thiên Chúa mời gọi sinh hoa kết quả. Bằng cách rao giảng và giảng dạy, những người thánh hiến cho Thiên Chúa chuẩn bị cho các cặp vợ chồng làm phép rửa tội cho con cái của họ, biến chúng thành con cái Thiên Chúa. Đó là một sự sinh sản thiêng liêng. Do đó, những người thánh hiến có kết quả thiêng liêng. Hơn nữa, bí tích rửa tội làm cho các trẻ em thành chi thể của Nhiệm thể Đức Kitô, tức là Hội Thánh. Như vậy, chúng ta nhận ra rằng khi Đức Kitô kết hợp chính Ngài với Hiền thê của Ngài là Hội thánh qua phép rửa, thì con cái mới của Thiên Chúa được sinh ra cách thiêng liêng và đồng thời được kết hợp với Thân mình của Đức Kitô. (Xin xem Êphêxô 5: 21-33.)

Tất nhiên, các linh mục và tu sĩ (cũng như giáo dân) cũng giúp người lớn trở lại theo Đức Kitô và chuẩn bị cho họ chịu phép rửa qua việc dạy giáo lý cách đầy đủ. Họ cũng trở thành con cái Thiên Chúa và chi thể của Thân thể Đức Kitô.

Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa vì một mình Người có cùng một thiên tính như Đức Chúa Cha và Đức Chúa Thánh Thần. Là Ngôi Hai của Ba Ngôi Chí Thánh, Người được Đức Chúa Cha sinh ra cách thiêng liêng từ đời đời, và như vậy, Người là Đấng duy nhất có thể nhận danh diệu là Con Một Thiên Chúa. Những người đã được rửa tội là con cái Thiên Chúa bằng cách được nhận nghĩa tử hay nghĩa nữ. Nhưng việc nhận làm nghĩa tử này không phải chỉ đơn thuần có tính cách pháp lý. Việc nhận nghĩa tử này là sự thông phần vào ân sủng của Thiên Chúa, vào Sự sống Ba Ngôi của chính Thiên Chúa. Do đó, những người đã chịu phép rửa là những người thông phần vào thiên tính (xem 2 Côrinthô 5:17; 2 Phi-e-rơ 1: 4; Galatê 4: 5-7). Nói tóm lại, Chúa Giêsu sở hữu thiên tính, còn các con cái Thiên Chúa thông phần vào thiên tính.

6. Tại sao ơn gọi trinh khiết hay độc thân ưu việt hơn ơn gọi Hôn nhân Bí tích?

Trước hết, sự vượt trội này không liên quan gì đến cái nhìn tiêu cực về tình dục của con người. Chúng ta đã nhiều lần thấy Chúa Giêsu coi trọng hôn nhân như thế nào. Nhưng những đòi hỏi về đồng trinh và độc thân có thể nâng người ta lên một sự hiệp thông mật thiết hơn với Thiên Chúa. Chúng cũng giải phóng con người khỏi nhiều trách nhiệm trong đời sống hôn nhân và gia đình, để những người thánh hiến có thể làm việc trực tiếp hơn cho việc mở rộng Hội Thánh, và vì thế cho Nước Thiên Chúa, nơi trần gian này.

Như thánh Phaolô dạy trong 1 Côrinthô 7, người nào chọn hôn nhân thì tốt, nhưng người chọn đồng trinh hay độc thân vì Nước Trời thì càng chọn tốt hơn.

Thánh Phaolô cũng dạy rằng người đã kết hôn bận tâm đến việc làm đẹp lòng người phối ngẫu của mình, trong khi người thánh hiến bận tâm đến việc làm đẹp lòng Thiên Chúa. Điều quan trọng, Thánh Phao-lô không nói rằng những người đã kết hôn không làm vui lòng Chúa Giêsu. Trong phần còn lại của các bức thư của mình, ông rất rõ ràng về điểm này, đặc biệt là trong Êphêxô 5: 21-33, nơi ông đưa ra giáo huấn tuyệt vời của mình về hôn nhân bí tích (mà chúng ta sẽ xem xét trong bài sau). Tuy nhiên, Thánh Phaolô thực tế về những đòi hỏi của đời sống hôn nhân và gia đình. Tất nhiên, vợ chồng phụng sự Chúa bằng cách yêu thương nhau và con cái của họ. Nhưng đúng là người được thánh hiến trực tiếp bận rộn hơn với những điều của Thiên Chúa.

Giáo huấn này không có nghĩa là những người chọn đời sống thánh hiến sẽ tự động thánh thiện hơn những người chọn hôn nhân. Thật vậy, có thể có những người trong đời sống thánh hiến sống ơn gọi của mình một cách tệ hại, và có những người đã kết hôn sống đời sống vợ chồng một cách không gương mẫu. Hội Thánh đã tuyên bố các vị thánh trong cả hai bậc sống. Nhưng vẫn đúng rằng những đòi hỏi của ơn gọi đồng trinh hay độc thân tạo ra khả năng có một cuộc sống thánh thiện hơn.

Tuy nhiên, không có lập luận nào ở trên, dù có hợp lý thế nào đi nữa, là lý do quan trọng nhất tại sao đồng trinh hoặc độc thân vì Nước Thiên Chúa là một bậc sống cao quý nhất. Chúng tôi đã thảo luận lý do đó là gì. Người thánh hiến đang sống cách tiển dự cuộc sống tương lai, trong đó bậc cuối cùng và dứt khoát của con người sẽ là bậc đồng trinh. Đúng là hôn nhân bí tích, như chúng ta sẽ thấy trong chu kỳ tiếp theo, là dấu chỉ hữu hình của sự kết hợp của Đức Kitô với Hội Thánh Người. Hôn nhân bí tích là sự trung gian qua đó vợ chồng thể hiện sự hiệp nhất đó, sự hiệp nhất này cũng là tiền dự tiệc cưới vĩnh cửu của Đức Kitô và Hội Thánh Người (được cứu chuộc trên Thiên đàng) – xem Khải Huyền 21: 1-2. Tuy nhiên, người được thánh hiến đang sống trên thế gian này với sự tiền dự trực tiếp sự kết hợp dứt khoát và trọn vẹn với Đức Kitô mà không cần đến sự trung gian của bậc hôn nhân.

Những người được thánh hiến và những người đã kết hôn nên quý trọng và hỗ trợ nhau trong các bậc sống của họ. Hơn nữa, họ nên cùng nhau làm việc càng nhiều càng tốt để thăng tiến Nước Thiên Chúa trên trần thế bằng cách mở rộng Hội Thánh Công giáo. Tất nhiên, việc các giám mục và linh mục là những người cai quản, giảng dạy và thánh hóa các tín hữu qua các Bí tích vẫn vẫn đúng. Nhưng điều này hoàn toàn không có ý nói rằng các tín hữu giáo dân vẫn còn ấu trĩ. Ngược lại, sự hướng dẫn, giảng dạy và thánh hóa mà các vị chủ chăn của Hội Thánh dành cho các chi thể của Thân Thể Đức Kitô phải giúp mọi người Công Giáo khiêm tốn sống một đời sống Kitô hữu trưởng thành và thánh thiện.