Video ngắn dưới đây củaThe Bible Project. Tuy của Tin Lành, nhưng tóm lược khá đầy đủ nội dung Chương 1 đến 11 của sách Sáng Thế.
The short video below of the Bible Project. Even developed by Protestants, but almost adequately summaries the content of Chapter 1-11 of the book of Genesis.
Trích từ Lời Chúa cho Mọi Người
* 1,1 Chúng ta phải cố gắng có một cái nhìn đơn sơ về trang đầu tiên này trong Kinh Thánh. Từ hơn 150 năm nay, người ta tranh luận quá nhiều về đề tài “Sáng tạo theo Kinh Thánh và theo khoa học”. Cách đặt và giải đáp vấn đề có quá nhiều sai sót và, vì thế, thường làm chúng ta khó chịu. Điều chúng ta tìm kiếm ở đây hẳn không phải là các dữ kiện lịch sử hay khoa học. Những người biên soạn chương này có nhiều điều khác để nói với chúng ta, và Thiên Chúa có quyền ký nhận công trình của họ, mặc dù họ xem trời như một cái vòm màu xanh và có người đã gắn các vì sao vào đó.
From The Christian Community Bible
• 1.1 We have to make an effort to look at this first page without prejudice. For the past hundred and fifty years, there have been too many debates on the theme “creation according to the bible and according to science.” This problem, poorly presented and resolved in an even worse way, usually leaves us dissatisfied. We are not looking here for historical or scientific data: those who wrote this chapter had many other things to tell us and God had the right to endorse their work even if they saw the sky as a blue ceiling on which someone attached the stars.
Như vậy ở đây có Lời của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta cũng đừng vội đọc bản văn này như thể nó chứa đựng tất cả các hiểu biết Ki-tô giáo về vũ trụ. Cũng như tất cả các tôn giáo trong quá khứ đã có “một vũ trụ luận”, nghĩa là các bài tường thuật về nguồn gốc của vũ trụ, thì Kinh Thánh cũng có vũ trụ luận của mình, và bài tường thuật này là bài quan trọng nhất. Kinh Thánh cũng còn nhiều điều quan trọng hơn để nói với ta ở một chỗ mà nhiều người không tìm đến, nghĩa là trong Tân Ước. Phải chờ đến lúc Đức Ki-tô xuất hiện (x. Ga 1 và Ep 1), thì mầu nhiệm Thiên Chúa Tạo Thành mới được mặc khải trọn vẹn.
Therefore, we have a Word of God here, but we do not read them as if they were “the” last word on the understanding of the universe. Just as all ancient religions have their own account of the origin of the world so has the Bible; but it has more to say and says it where many do not look: in the New Testament. For the revelation of the mystery of God-Creator it was necessary to wait for the coming of Christ: see Jn 1 and Eph 1.
Bài tường thuật này có tiết điệu nhịp nhàng, các câu được lặp đi lặp lại, và mang hình thức một bài thánh ca phụng vụ. Có thể xem đây là lời mở đầu dẫn vào tâm điểm thứ nhất của Kinh Thánh, được biên soạn vào thế kỷ thứ V tCN, khi người Do-thái trở về từ cuộc lưu đày tại Ba-by-lon.
This rhythmic account, with its repetitions and its liturgical form, is like a preface, the overture of the first nucleus of the Bible produced in the fifth century before Christ as the Jews came back from their captivity in Babylon.
Nhưng bài tường thuật này muốn nói gì ? Rằng Thiên Chúa đã sáng tạo tất cả chăng ? Hẳn là thế. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, khác với vũ trụ mà Người đã sáng tạo. Thiên Chúa có trước vũ trụ. Nhưng trên hết mọi sự, điều mà tác giả muốn nói chính là chỉ cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa vượt xa công trình sáng tạo đang làm chúng ta phải thán phục hay đang đè bẹp chúng ta, rằng Thiên Chúa vượt xa một thiên nhiên vừa tỏ ra vô cùng phong phú vừa chế ngự chúng ta một cách mãnh liệt, đến nỗi chúng ta dễ dàng để cho nó cuốn hút mất.
But what does it mean? That God made everything? Of course. God, one God, different from the universe and who exists before it. However, what matters for the author is to show that God is beyond this creation which may either amaze or crush us, beyond a nature so rich and dominating that we are overwhelmed by its beauty.
Thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. Nên biết rằng, trong tiếng Híp-ri, từ hơi thở hay gió có nghĩa tột cùng là thần khí (x. Ga 3,8). Như vậy đây chính là Thần Khí Thiên Chúa được nhắc đến ngay trước Lời để cho thấy rằng toàn bộ công trình của Thiên Chúa là một sức sống. Lời và Thần Khí là như hai bàn tay của Thiên Chúa Tạo Thành. Đây chính là điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính : Chúa Thánh Thần đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy.
The Spirit of God hovered over the waters. We have to know that in Hebrew, it is the word “breath” or “wind” which signifies “spirit” (see John 3:18). Here we have the Spirit of God, as breath, named just before the Word. Word and Spirit are like the two hands of God the creator. This is precisely what we profess in the Creed: The Holy Spirit has spoken through the prophets.
Thiên Chúa hành động nhờ Lời của Người : Lời biểu lộ các ý muốn của Người. Ngay từ lúc khởi đầu này, Lời của Thiên Chúa –nơi khác được gọi là Đức Khôn Ngoan– tổ chức vũ trụ, không phải như một miền đất lạ, một thế giới mà Thiên Chúa nhìn từ trên cao, nhưng như một nơi chốn mà một ngày kia Người sẽ đến viếng thăm.
God works through his Word bearer of his will. From that moment the Word, called in other places the Wisdom, organizes the universe, but not as a foreign land which God would look from on high; it is a place He will visit one day.
Thiên Chúa phán. Đây được xem là một ranh giới giữa Thiên Chúa và loài thụ tạo. Thế giới không phải là Thiên Chúa cũng không phải là khuôn mặt của Thiên Chúa. Thế giới không phát xuất từ Thiên Chúa như từ một cõi vô biên phát ra những kho tàng phong phú mà không hề biết đến và cũng chẳng cai quản chúng. Một cách nào đó thế giới ở trong Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa ở ngoài và không lệ thuộc vào thế giới. Đừng quên điều trên đây khi, sau này, Tân Ước nói đến sự hiệp thông với Thiên Chúa : chỉ có hiệp thông đích thực, nếu chính Thiên Chúa kêu gọi chúng ta.
God said. This is like a divider put between God and his creatures. The world is not God and is not a face of God; it did not come out from God as from an Infinite which lets its riches slip away without knowing nor dominating them. Somehow the world is in God, but God is outside the world and does not depend upon it. We should not forget that when later the New Testament speaks of communion with God: such a communion can only occur if God personally calls us.
Thiên Chúa sáng tạo nghĩa là Thiên Chúa xác lập một trật tự. Ngày thứ nhất, ngày thứ hai, ngày thứ ba… Tất cả tạo thành không ở trên cùng một bình diện : một vũ trụ vật chất trên đó sự sống sẽ xuất hiện với muôn loài muôn vật vừa mang tính khác biệt vừa được ấn định theo cấp bậc.
God creates – this means first of all that God puts order. First day… second day… seventh day. All the creatures are not at the same level. First a material universe where life will appear later on, with its thousands realizations, diversified and ordered.
Người Híp-ri chia thế giới làm ba phần : trời, đất, nước. Chúng ta sẽ gặp lại thứ tự này trong các ngày Thiên Chúa sáng tạo : ngày thứ nhất và ngày thứ tư, thứ hai và thứ năm, thứ ba và thứ sáu. Tất cả đều xuất hiện vào đúng giờ của mình : các thụ tạo hoàn hảo hơn xuất hiện sau các thụ tạo thấp kém và con người xuất hiện sau cùng.
The Hebrews divided the world into three regions: the sky, earth and water. We discover this order: days 1 and 4, 2 and 5, 3 and 6. Everything comes at its appointed hour.
Thiên Chúa sắp đặt thế giới và cuộc sống theo một trật tự. Mặt trời và mặt trăng không được dựng nên chỉ để soi sáng mà còn để ấn định thời gian, phân chia năm tháng ngày giờ. Không có cuộc sống con người, không có đời sống gia đình mà không có các ngày lễ, không có kỷ luật, giờ giấc thức dậy và ngủ nghỉ, làm việc và ăn uống.
God organizes the world and gives meaning to our existence. See how the sun and moon are not there only to give light: in measuring time they provide the basis of a calendar. There is no human life, no family life without feasts, without discipline and regularity in rising and going to bed, in hours for work and hours for meals.
Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Không có gì là xấu trong tất cả những gì Thiên Chúa sáng tạo. Nhưng tác giả không phủ nhận sự hiện diện của sự dữ trong thế giới : đối với người Ít-ra-en, biển cả và đêm đen là những thế lực xấu xa. Nhưng các sức mạnh này lại được chế ngự : biển cả có ranh giới, và mỗi ngày, đêm đen nhường chỗ cho ánh sáng.
God saw that it was good. There is nothing bad in all that God created even though the author does not deny the existence of evil forces in the world: to the Israelites the sea and the night were evil forces. But now, all these forces are contained: the sea has its limits and night gives way to light every day.
Tuy vậy, cũng sẽ phải nêu lên câu hỏi sau đây : Ai đã đưa sự dữ vào thế giới ? (x. St 3 ; Kn 1,14 ; 11,20 ; Hc 13,1 ; Gc 1,17).
However, we will have to raise the question: Who put evil in the world? (See Gen 3; Wis 1:14; Sir 13:1; James 1:17.)
Với việc sáng tạo con người, công trình của Thiên Chúa kết thúc. Bản văn khẳng định ba điều căn bản làm nền tảng cho quan niệm Ki-tô giáo về con người, đồng thời cũng là những điều vững chắc đã tạo nên tính hiện đại và được những người ngoài thế giới Ki-tô giáo chấp nhận :
God’s work is completed with the creation of humanity. The text provides us with three decisive statements which are at the root of the Christian concept of humankind. In time these convictions brought about modernity and they gained credence well beyond the Christian world.
– Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa. Đây là một trong những điều quan trọng nhất mà Kinh Thánh khẳng định : con người không bị giam hãm vô vọng trong thế giới của các ảo ảnh do mình tạo nên ; con người cũng không là tù nhân của các phạm trù, các cơ cấu do mình đặt ra. Con người được sáng tạo cho Sự Thật. Thiên Chúa có thể nói cho con người biết những điều cốt yếu bằng chính ngôn ngữ và kinh nghiệm của con người : chúng ta không phải nghi nan mãi mãi. Theo hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta được sáng tạo và chắc chắn được sáng tạo để đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa.
– God created man in his image. Here we have one of the most important statements of the Bible: human beings are not hopelessly confined to the world of their fantasies and illusions; they are not prisoners of their own categories and structures, instead they are created for the Truth. God can communicate essential things to them in human language and through human experiences: we are not condemned to doubt forever. We are created in God’s image and, of course, to respond to God.
– Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Đây là phẩm giá của đôi nam nữ. Con người mà Thiên Chúa sáng tạo không phải là người nam một mình hay người nữ một mình, nhưng là đôi nam nữ. Thật là kỳ lạ, trong một nền văn hoá chồng chúa vợ tôi như vậy mà tác giả lại khẳng định không có sự khác biệt về địa vị giữa người nam và người nữ.
– Male and female he created them. Where the Bible states that God created man, it does not speak of man nor of woman alone, but of the couple. The image of God is not that of an individual prisoner in his solitude and his sufficiency, but of the couple.
Với Kinh Thánh, chúng ta tránh được cái nhìn giản lược của các học thuyết duy vật : theo đó, khác biệt giới tính chỉ là kết quả ngẫu nhiên trong sự biến đổi nhiễm sắc thể, hoặc tình yêu cũng chỉ là một sản phẩm ngẫu nhiên của sự phân chia giới tính. Trái lại, chúng ta khẳng định rằng tình yêu đứng đầu trong chương trình của Thiên Chúa và sự tiến hoá lâu dài về tính dục cũng chỉ nhằm chuẩn bị cho tình yêu.
So we avoid simplistic images of materialist theories: the division of the sexes would be nothing more than the product of chance in the transformation of chromosomes, and also by chance love would follow from the division of the sexes. But love has first place in God’s plan and the long evolution of sexuality has been its preparation.
– Hãy thống trị mặt đất… Không phải để con người trở thành bạo chúa bá chủ thống trị và gây tai hoạ cho nhân sinh trên một hành tinh bị biến thành bãi rác, nhưng Thiên Chúa giao phó toàn thể vũ trụ cho con người. Con người sẽ sử dụng tất cả mọi sự, ngay cả sự sống, để phát triển, trưởng thành, và đưa cuộc nhân sinh đến chỗ hoàn tất trước khi trở về với Thiên Chúa.
– Let them rule… This is not intended for human beings to be tyrannical or domineering, endangering human existence on a garbage-can planet. God gives them the entire universe. Human beings will use everything, even life itself, to grow, to mature and to bring the human adventure to completion before returning to God.
Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất. Thiên Chúa chúc phúc cho con người – nam và nữ. Sẽ là sai lầm khi dựa vào lời chúc phúc này để cổ võ việc sinh sản vô trách nhiệm (Hc 7,23 ; 11,28). Tuy nhiên rất nhiều lần, Kinh Thánh cho thấy rằng một dân tộc không còn sinh con đẻ cái thì đã đánh mất con đường dẫn tới phúc lành của Thiên Chúa (Tv 127,3 ; Cn 17,6 ; Hc 3,2).
Be fruitful and increase in number. God blesses them. It would be wrong to use this blessing to preach procreation without responsibility (see Wis 4:11 praising families whose children are well educated, useful and good before God). However, on many occasions, the Bible will show that a people who no longer has children has lost the road of divine blessings.
Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất. Với những lời này, tác giả đề cao lý tưởng về thế giới không có bạo lực, trong đó người ta sẽ không giết chết ngay cả loài vật. Thiên Chúa không muốn các thụ tạo phải chết, mặc dù sau này Người phải nhượng bộ (St 9,3) vì quan tâm đến thực tế con người tội lỗi.
I have given you every seed-bearing plant. With these words the author expresses the ideal of a non-violent world in which not even animals would be killed. But later, a concession is made (Gen 9:3) because God takes into consideration the true condition of sinful humanity.
Ngày thứ bảy Thiên Chúa nghỉ ngơi. Tiếng Híp-ri gọi ngày thứ bảy là ngày sa-bát, nghĩa là ngày nghỉ. Tôn trọng ngày thứ bảy là một điều quan trọng đối với người Ít-ra-en và Ki-tô hữu. Ngày thứ bảy là một ngày thánh, nghĩa là hoàn toàn khác với những ngày còn lại. Nhờ ngày này ta thoát khỏi ách nô lệ của lao động và sãn sàng gặp gỡ Thiên Chúa, người khác và bản thân mình (x. Xh 20,8 và các lời hứa trong Is 56,4 ; 58,13).
God rested on the seventh day. Respect for this seventh day, called “sabbath” in Hebrew, that is to say, “rest,” is one of the pillars of Israelite and Christian practice. It is a holy day, that is to say, a day entirely different from the other days, a day which makes us holy and different from others. Thanks to that day, people escape from their enslavement to work and they are available for an encounter with God, with others and with themselves (see Ex 20:8 and the promises expressed in Is 56:4; 58:13).
SÁNG TẠO VÀ CON NGƯỜI THỜI NAY
CREATION AND MODERN HUMANKIND
Kinh Thánh đề cao phẩm giá con người, khi khẳng định con người xuất phát từ Thiên Chúa chứ không phải là sản phẩm của ngẫu nhiên.
When the Bible says that God creates everything and is before all things, it exalts man who comes from God and is no longer a product of chance.
Các dân tộc thời nguyên thuỷ tin rằng họ hoàn toàn lệ thuộc vào các sở thích thất thường của các thần minh. Ngay cả người Hy-lạp, vốn rất tự hào là những người tự do, vẫn chấp nhận sức mạnh của một định mệnh mà không một ai thoát khỏi. Sức mạnh của định mệnh đã làm đa số các dân tộc phải sợ hãi, làm tê liệt các cố gắng để vươn lên và dập tắt niềm vui đích thực.
The Bible frees people from anguish. Primitive peoples thought they were dependent on the caprice of their gods; even the Greeks, so proud of freedom, accepted the weight of a destiny from which no one could escape. Their aim to dominate nature was blocked by fear of offending these gods, their masters.
Trái lại, Kinh Thánh giới thiệu những con người không còn sợ quyền lực bí ẩn của tinh tú (chúng chỉ là những vầng sáng trên vòm trời, phục vụ Thiên Chúa), những con người không còn sợ bị nguyền rủa khi tìm hiểu các bí mật của vũ trụ. Không phải ngẫu nhiên mà đà phát triển mạnh mẽ của nền văn minh lại khởi đi từ Tây Phương đã được Ki-tô giáo cảm hoá.
The Bible, on the other hand, presents believers not afraid of the hidden power of the stars (they are “lamps” at God’s service), nor of any curse in their destiny when they look for the secrets of the universe; it is no accident that the great thrust of civilization originated in the Christianized West.
MỘT SỨ ĐIỆP CÓ TÍNH TIÊN TRI
A PROPHETIC MESSAGE
Trang Kinh Thánh đầu tiên này đặt nền tảng cho một quan niệm Ki-tô giáo về cuộc sống. Nhưng chúng ta cũng phải nói rằng nó có một giá trị ngôn sứ, nghĩa là nếu bây giờ chúng ta đọc lại trang này sau khi đã đón nhận Tin Mừng, thì các lời cổ xưa này lại cho thấy những chân lý mới. Sau đây là một vài thí dụ :
This first page of the Bible lays the foundation of a Christian view of life. But we also say that it has a prophetic value in the sense that if we reread it now after having received the Gospel, these ancient words let new truths show through. Here are a few examples:
Khi đề cập đến công trình sáng tạo xuất hiện ngoài Thiên Chúa trong thời gian, sách Sáng thế nói : lúc khởi đầu, nhưng Ga sẽ cho chúng ta thấy nhiều điều phong phú khác của lúc khởi đầu này (Ga 1,1), một lúc khởi đầu không hề qua đi đối với Thiên Chúa. Vì không lệ thuộc vào thời gian, nên Thiên Chúa sống trong sự sung mãn trường tồn mà chúng ta gọi là vĩnh cửu. Ở đó, không có trước có sau, không có khoảng thời gian, không có mệt mỏi chán chường. Lúc khởi đầu, Thiên Chúa hướng về Con của Người vừa là hình ảnh vừa là Lời của Người (Cl 1,15 ; Hr 1,3). Nhưng cũng chính vào lúc khởi đầu này, Thiên Chúa sáng tạo thế giới ở ngoài Người để ban phát các sự phong phú mà Thiên Chúa chiêm ngắm nơi Con của Người. Và đây là lúc khởi đầu của vũ trụ và sinh linh, của không gian và thời gian.
Genesis says: In the beginning, speaking of creation which appears outside of God in time, but John will tell us more clearly about that beginning (Jn 1:1) which does not cease for God. Because God is not subject to time: God lives in that permanent fullness which we call eternity and in which there is no before or after, no duration, no fatigue and no boredom. In the beginning, God projects himself in his Son who is both the image of God and his Word (Col 1:15; Heb 1:3). Yet in this same beginning God creates the world outside of himself in order to place in it the richness that he contemplates in his Son. It is at that point that the universe and spirits, space and time do begin.
Các chiều kích của vũ trụ này thách thức trí tưởng tượng của chúng ta và, vì vậy, khoảng thời gian tồn tại của nó cũng biểu lộ mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa ; toàn bộ lịch sử loài người xảy ra trong đó sẽ là “một lịch sử thánh thiêng”. Thiên Chúa sẽ thực hiện ước muốn mà Người có từ thuở đời đời : Người sẽ yêu thương chúng ta, đưa con người tới chỗ trưởng thành và quy tụ mọi người trong Chúa Ki-tô.
This universe which defies our imagination by its dimensions and its duration is then an expression of God’s profound mystery. All human history that will take place there will be “sacred history” where God will fulfill an eternal desire: his will to love us, to lead us to maturity and unite us in Christ.
Theo hình ảnh Thiên Chúa, giống như Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi chia sẻ mầu nhiệm Thiên Chúa vào cuối con đường dẫn chúng ta đến chỗ giống như Thiên Chúa. Tân Ước cho chúng ta biết đây là con đường tình yêu : 1 Cr 13,13 ; 1 Ga 3,1-2 ; 4,7-8.
Hãy thống trị. Mặc dù thân phận yếu đuối, con người vẫn được Thiên Chúa chọn làm trung gian giữa Thiên Chúa và vũ trụ. Ngay từ lúc khởi đầu công trình sáng tạo, Thiên Chúa đã quyết định để cho Con của Người xuống thế làm người (Ep 1,4.9). Cũng chính Người Con này mà Thánh vịnh 8 nhắm tới trước tiên khi nói : con người là chi mà Chúa cần nhớ đến ?, ban vinh quang vinh dự làm mũ triều thiên (x. 1 Cr 15,24 ; Hr 2,6-7).
Rule over…. Despite their frailty, their human beings have been chosen by God to be the link between God and the universe. From the first moment of creation God planned that his Son would become man (Eph 1:1-14); to him refer the words of Psalm 8: What is man that you should remember him? You crowned him with glory and honor and gave him the works of your hands. (See 1 Cor 15:24.).
Ngày thứ bảy Thiên Chúa nghỉ ngơi. Thiên Chúa nghỉ ngơi không có nghĩa là từ đó Thiên Chúa nhìn công trình sáng tạo từ xa (Ga 5,17). Đúng ra chúng ta phải hiểu rằng công trình sáng tạo của Thiên Chúa và ngay cả công việc của con người dẫn đến một ngày không tàn lụi, khi chúng ta được yên nghỉ trong Thiên Chúa và hưởng hạnh phúc đời đời (Hr 4,1-10).
On the seventh day God rested. This rest of God doesn’t mean that since then God regards his creation from afar (Jn 5:17). We should rather understand that God’s creation and even the work of humans lead to the endless day when we shall rest in God and share his happiness. (See Heb 4:1-10.)