Từ Lời Chúa cho Mọi Người
From Christian Community Bible
* 2,4b Sau cuộc sáng tạo vũ trụ ở chương đầu của Sáng thế, Kinh Thánh giới thiệu với chúng ta một trình thuật cổ xưa hơn nhiều : người nam và người nữ trong vườn địa đàng. Đối với chúng ta thì đấy là giấc mộng về một hạnh phúc đã mất, nhưng tác giả câu chuyện không nghĩ thế. Thời đó, người ta không thắc mắc : Chúng ta đang đi về đâu ? Người ta chỉ nghĩ rằng thời xửa thời xưa, thuở ban đầu, Thiên Chúa, hoặc các thần đã thiết lập mọi vật thế nào thì chúng sẽ phải là thế, và vì vậy mà cái gì cũng tốt đẹp hết. Vậy, sự tích về cặp vợ chồng đầu tiên là một tấm gương trong đó người ta muốn nhìn lại được con người đang hiện hữu, các chọn lựa và tương lai của họ.
• 2.4 Following the “creation of the universe” that takes up the first chapter of Genesis, the Bible presents a much older account: Man and Woman in the garden of Eden. For us it is like a dream of lost happiness, but this is not the way its author intended it. In those days people did not ask: Where are we going? They thought only in terms of the past: in the beginning, God or the gods had established all things as they ought to be and then everything worked well. Therefore this story of the first couple was like a mirror in which people rediscovered existing human beings, their choices and their future.
Vậy, chúng ta đừng mơ mộng về một con người đầu tiên thuộc loại A-đam / Tạc-dăng kiểu Hollywood, đã phạm một tội kếch sù khiến cho nhân loại phải chuốc lấy tất cả mọi khốn khổ hiện nay. Một số “giáo phụ” thời đầu nhìn rõ hơn, khi các ngài coi lịch sử nhân loại như là được hướng dẫn bởi đường lối sư phạm của Thiên Chúa, Đấng muốn cho “A-đam”, tức là nhân loại lớn lên, và đưa nó tới tuổi trưởng thành (Ep 4,13).
Consequently, we should not think of a first man Tarzan-like Adam whose sin brought all its trials to humanity. Some of the “Fathers of the Church,” like Saint Irenaeus, had a better perspective when they considered that human history was directed by the pedagogy of God whose sole ambition was to foster the growth of “Adam,” namely, humankind, and to bring it to maturity (Eph 4:13).
Ở đây, Đức Chúa, Thiên Chúa chí thánh, là sở hữu chủ của một thửa vườn kỳ diệu (Ê-đen có nghĩa là hoan lạc), nơi mà Người thích đi dạo sau buổi trưa nóng bức (3,8). Chúng ta không cần phải tưởng tượng ra một khung cảnh bao la : chỉ có hai cái cây, con người và bạn đời của nó. Các sinh vật chỉ diễu qua để xem con người gọi tên chúng là gì : điều này có nghĩa là chúng sẽ luỵ phục con người. Tuy nhiên, khu vườn của đôi vợ chồng có nhỏ mấy đi nữa, thì chuyện sắp xảy ra ở đây cũng sẽ quyết định số phận của cả địa cầu. Cũng vậy, ở đầu trình thuật, con suối nhỏ của Ê-đen cung cấp nước cho các con sông lớn của thế giới, trong số đó có sông Êu-phơ-rát và sông Ghi-khôn cách nhau cả mấy ngàn cây số.
Yahweh, the Holy God, is pictured as the owner of a marvelous garden (Eden means delights) where he likes to take a walk after the heat of the day (3:8). We need not imagine a huge stage: all we have here are two trees, Man and his companion. Animals pass by to be subject to Adam (that is the meaning of naming them in 2:20). But no matter how small the Eden of the human couple is, what takes place there will, in the end, determine the lot of the entire earth. Thus, at the beginning, the small fountain of Eden is seen as feeding the great rivers of the world, especially the Euphrates and the Gihon which are thousands of kilometers apart.
Phải nói về ông A-đam hay về con người ? Trong tiếng Híp-ri, A-đam có nghĩa là người. Khi từ này không có mạo từ đi trước (ở 5,1 ; 5,3) thì là tên riêng và chúng tôi dịch là A-đam. Thế nhưng ở đây Sách Thánh viết ha A-đam, tức là con người. Về chuyện này, xin nhắc lại lời của O-ri-giê-nê, nhà chuyên môn Kinh Thánh vĩ đại của tk III, như sau : Chỉ những ai biết rằng trong tiếng Híp-ri, A-đam có nghĩa là “người”, mới hiểu được ý nghĩa sâu xa của trình thuật này. Trong những đoạn sách được viết ra như lịch sử của A-đam thì ông Mô-sê đưa ra cho chúng ta giáo huấn của ông về bản tính loài người.
Should we speak of Adam or of Man? In Hebrew Adam means any human being. When the word is used as a proper name without the article (as for example in 5:1; 5:3), we say Adam. Here, however, the Bible says “the” Adam, that is Man, the human one. In this regard, let us recall the words of Origen, the great biblicist who, living in the 3rd century, wrote: “As to Adam and his sin, only those who know that in Hebrew Adam means man, will really understand the profound meaning of this story. In those passages presented as the story of Adam, Moses gives his teaching about human nature.”
Đức Chúa, người thợ thủ công lành nghề, vừa nhào nắn nắm bụi đất bằng đôi tay của mình, vừa ngắm nhìn kẻ chưa có thể biết được Người, đồng thời chuẩn bị cho nó đón nhận sinh khí và sự sống từ chính hơi thở của Người.
Notice how Yahweh, the good craftsman and artist that he is, works the clay with his own hands, looking at the one who is still unable to know him and preparing him to receive from his “blowing” both breath and life. About breath of life, or the human soul, see paragraph 83 in the index: Biblical Teaching.
Sự hài hoà giữa con người với vũ trụ tạo thành : con người ở Ê-đen như trong một ốc đảo giữa sa mạc, đôi vợ chồng thì hợp nhất, đó là toàn thể thiên nhiên trong trật tự tốt đẹp.
Humankind in harmony with the created universe: in Eden, Adam is like in an oasis in the middle of the desert. And with the human couple united, all of nature is in order.
Con người được đặt trong vườn để canh tác : khi làm chủ thế giới là nhân loại xây dựng chính mình ; nhân loại phải vất vả suốt nhiều thế kỷ để tự phát triển, để tự biết về mình và để biết mình có khả năng làm được gì.
Adam is placed in the garden to cultivate it: humanity will be built up at the same time as it takes possession of the world. It will have to toil for many centuries in order to develop, to know itself and to know what it can do.
Thiên Chúa rời đi, nhưng con người sống nhờ ơn Thiên Chúa ban (cây trường sinh thời xưa được coi như đặc quyền của các thần), mà hơi thở của Người giữ gìn cho con người tỉnh thức và không ngủ gục cũng chẳng trở lại tình trạng con người xuất phát. Nếu Thần Khí bỏ rơi con người, trong một vài giây lát hay một vài thế hệ, con người sẽ trở về bụi đất : con người, tức là bạn và tôi, các gia đình và nền văn minh. Người ta rêu rao rằng Thiên Chúa đã chết, nhưng thật ra, khi không có Thiên Chúa, chính con người mới tiêu vong cùng với sự nghiệp của nó.
God withdrew, but humans live through the grace of God whose breath constantly awakens them so that they will not fall asleep or fall back to where they came from. Should the Spirit abandon the human race, within a few minutes, or generations, Adam would return to dust: Adam, that is, you and me; as well as families, and societies. We may proclaim the death of God, but in fact, men and women without God are the ones who die with all their works.
Cây cho biết điều thiện điều ác là gì ? Điều thiện điều ác có nghĩa là cái tốt, hữu ích, và cái không tốt, vô ích. Như vậy, cây này là cây làm cho nên khôn, biết nghệ thuật sống và được hạnh phúc. Thiên Chúa mở cho con người một con đường khôn ngoan, nhưng con người thì tự do. Liệu con người có chấp nhận không tự mình chiếm lấy khôn ngoan, chấp nhận không tự quyết, như chủ tể, điều gì là tốt cho mình ?
What is the meaning of the tree of the knowledge of good and evil? Good and evil mean this: what is good and useful and what is not. So this tree is the tree of wisdom, of the art of living and of being happy. God opens up a road of wisdom before humankind, but human beings are free. Will they refuse to travel that road, not to be the ones who know and decide authoritatively what will be good for them?
Con người ở một mình thì không tốt (2,18). Thiên Chúa là Đấng không biết đến cô đơn, sáng tạo nên hai giới nam, nữ, không phải như phương thế bắt buộc để truyền sinh, nhưng để cho vợ chồng kết hợp trong tình yêu, sự trao hiến chính mình và chia sẻ hạnh phúc với nhau.
It is not good for Man to be alone (2:18). God, who does not know solitude, created both sexes, not as a necessary means to communicate life, but so that the two might be united in love, the gift of self and shared happiness.
Con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng (2,20). Cuộc diễu hành của các giống vật giúp khám phá ra giá trị duy nhất của phụ nữ : một người bạn đời chứ không phải là tỳ nữ.
He did not find among them a helper like himself (2:20). The parade of animals prepares us to discover the unique value of Woman: she is his companion and not his servant.
Con người thiếp đi (2,21) để Thiên Chúa có thể thực hiện một biến đổi nơi con người : hai người sẽ thành một, và đó là một cuộc sinh ra mới nữa đối với cả hai.
Adam fell asleep (2:21) so that God might work out a transmutation in him: he would become one in two persons; and this will be a new birth for each one of them.
Nàng sẽ được gọi là đàn bà Trong tiếng Híp-ri, các từ đàn ông, đàn bà bắt đầu bằng cũng một vần : đấy là biểu tượng cho quan hệ thân tộc sâu xa. Thế nhưng, dân Ít-ra-en xưa, cũng như chúng ta ngày nay, quên mất quan hệ này là mối quan hệ loại trừ mọi quyền thống trị. Về vấn đề này, x. Mt 2,15 ; Lc 8,1 ; 1 Cr 7,4.10 ; Ep 5,31.
She shall be called woman. In Hebrew the words man and woman begin with the same syllable, a symbol of their profound kinship. On this subject, see Mt 2:15; Lk 8:1; 1 Cor 7:4; 7:10; Eph 5:31.
Bởi thế người đàn ông lìa cha mẹ. Phong tục Do-thái xưa đòi người phụ nữ phải xuất giá tòng phu để gia nhập dòng họ nhà chồng. Nhưng khi ấy người ta cũng nhắc lại rằng thời xửa thời xưa thì ngược lại : người chồng gia nhập dòng họ người vợ. Thật ra, cả hai bên đều phải rời khỏi môi trường gia đình của mình để lập một tổ ấm mới.
That is why man leaves his father and mother. Jewish custom required a woman to leave her family in order to enter in her husband’s clan. Yet, people recalled that in ancient times, it was the opposite: the husband was the one who entered into the woman’s clan. In fact, both are running the risk of separating themselves from the family milieu in order to establish a new social unity.
Và cả hai thành một xương một thịt : trong tiếng Híp-ri điều này có nghĩa là họ thành một. Tính duy nhất này của đôi lứa là một phần của sứ mạng vợ chồng phải thi hành ; đó không phải là một thoả thuận tạm thời để hai bên tận hưởng nhau, nhưng họ làm nên một gia đình, nơi đó công trình của Thiên Chúa được thực hiện. Vậy gia đình sẽ sinh con đẻ cái và như thế hai người sẽ trả lại cho đại gia đình nhân loại kho báu nhân tính mà họ đã nhận được từ đó.
They become one flesh: in Hebrew it means that they form one single being. This union of the couple is part of their mission. It is not a provisional agreement to enjoy each other, but the union of a family in which God’s work is accomplished. Therefore the family will be fruitful and the two will give back to the large human family the treasure of humanity which they received from it.
Không thể nào đọc lại lời này mà không nhớ đến cách thức lời ấy đã được Tin Mừng lấy lại (Mt 19,10). Những lời Chúa Giê-su nói về hôn nhân sẽ nằm trong số những lời của Người gây khó hiểu nhất.
We cannot reread this phrase without recalling the way it will be taken up in the Gospel (Mt 19:15). Jesus’ words on marriage are among his least understood words.
Dầu sao thì ý muốn của Thiên Chúa trong bản văn cổ xưa này là rõ : những năm tháng sống chung, những cố gắng để nghe nhau, thông cảm nhau và cùng nhau đi đến những quyết định, khả năng tha thứ và mãi mãi trung thành với nhau, những phiêu lưu cùng chấp nhận để cho ra đời và giáo dục cả một gia đình : đấy là những phương thế dần dần biến đổi vợ chồng, làm cho họ đạt được sự trưởng thành và biết được ý nghĩa trách nhiệm của họ. Và chính đó là điều Thiên Chúa muốn thấy được nơi họ khi họ kết thúc cuộc đời, khi mà Người sẽ là tất cả trong mọi người.
Yet the will of God was clear in this ancient text: the years of common life, the efforts to listen to each other, to understand and make decisions together, the capacity to forgive and persevere in fidelity, the shared risk in giving birth and educating a family: those are the means which, little by little, transform the man and the woman, enabling them to gain maturity and a sense of their responsibility. And it is precisely that which God wishes to find in them at the end of their life when he will be all for all.
Cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau. Trong văn hoá Híp-ri, trần truồng là không được bảo vệ. Vậy, ở đây chúng ta hãy hiểu rằng vợ chồng với nhau, có sao thì chấp nhận nhau như vậy mà không lạm dụng những yếu đuối của nhau (TOB).
They were naked and were not ashamed. In Hebraic culture, nakedness leaves us defenseless. Thus here, we should understand that the man and the woman accept each other as they are without taking advantage of their respective weaknesses.
KINH THÁNH VÀ TIẾN HOÁ
THE BIBLE AND EVOLUTION
Chúng ta thừa biết rằng trình thuật này không hề có tham vọng mô tả chuyện loài người xuất hiện thế nào và vì thế không mâu thuẫn với khoa học. Nếu bây giờ chúng ta đặt câu hỏi : Thời tiền sử của loài người là gì ? Loài người liên hệ thế nào với các hình thức khác của đời sống sinh vật ? Đấy là những thắc mắc mà những con người xưa không đặt ra và Lời của Thiên Chúa cũng không có câu trả lời về vấn đề này. Thiên Chúa để cho chúng ta tìm hiểu lấy : đó là việc của các nhà khoa học.
We already know that this account does not, in any way, claim to describe the emergence of the human race and so, it cannot be in conflict with science. If we ask today: What was the pre-history of the human race? How is the race connected to other forms of animal life? These are questions that people did not ask and the Word of God provides no answer on the subject. God lets us look for ourselves and this in fact is what scientists do.
Có những người bị dội vì con người được làm ra từ bụi : nhưng trong văn chương Đông Phương cổ thời, tất cả các thần đều tạo dựng các sinh vật từ bùn. Tác giả trình thuật này đã theo văn học dân gian của thời mình và đã dùng lại những thần thoại nhưng đưa vào đó một ý nghĩa mới.
Some people are shocked that humankind should be drawn from mud; yet in the literature of the ancient East, all the gods created living beings from mud. The author of this narrative followed the folklore of his time and drawing on old legends, gave them a new meaning.
Có những người lại rất ấn tượng với các giả thuyết duy vật –xưa lắm rồi– và về chuyện các giả thuyết ấy sử dụng thuyết tiến hoá, nên ở đây cần nói một chút về vấn đề này.
Khi người ta nghĩ rằng có sự mâu thuẫn giữa đức tin và quan niệm về một thế giới đang tiến hoá, thì thường là do người ta lẫn lộn ba vấn đề rất khác nhau :
Other people are so impressed by materialistic theories – already quite outdated – and their use of evolution, that we have to say something about it here.
When Christians think they see opposition between faith and the vision of a world in evo-lution, it usually comes from the fact that they are confusing three very different questions:
1. Có những tiến hoá của toàn thể vũ trụ và cách riêng của các sinh vật không ? Có thể nói rằng tất cả các giống loại còn hiện hữu hoặc đã biến mất đều là một phần của cùng một gia đình và giống này xuất phát từ giống kia không ? Ngày nay tất cả những ai đã nghiên cứu các sự kiện đều trả lời là có.
1. Is there an evolution of the entire universe and in particular of living beings? Can we say that all the present or extinct species are part of a same family and come one from the other? Today all who have studied the facts reply affirmatively.
2. Đâu là nguyên nhân của một cuộc tiến hoá như thế ? Phải thú nhận rằng người ta chẳng biết gì về điều đó. Người ta biết được nguyên nhân của một vài tiến hoá nhỏ, nhưng cho tới nay người ta chưa biết được điều cốt yếu của tiến hoá. Và từ đó có câu trả lời cho vấn đề thứ ba.
2. What are the causes of such an evolution? The causes of some small evolutions are known, but so far it has been absolutely impossible to explain the most important evolution. From that is deduced the answer to the third question.
3. Các giả thuyết về tiến hoá có nghịch với đức tin không ? Các giả thuyết này không còn thuộc về khoa học nữa, nhưng thuộc về triết học hoặc tưởng tượng, cho dù đã được những nhà khoa học nổi tiếng như ông Đác-uynh xưa đưa ra. Một tín hữu hay một người duy vật được hoàn toàn tự do chấp nhận những quan điểm trái nghịch nhau.
3. Are the theories of evolution opposed to faith? These theories are not science but philosophy or imagination, even if they have been formulated by eminent scientists. A believer or a materialist would have full liberty to support an opposing point of view.
Một ghi nhận cuối cùng nữa. Điều lạ lùng nơi con người, là mỗi người nhận lãnh từ Thiên Chúa thần khí, nhờ đó con người là một ngôi vị theo hình ảnh Thiên Chúa. Điều đó chẳng thay đổi gì nếu chúng ta nhận lãnh thân xác chúng ta từ cha mẹ là những con người, còn những con người đầu tiên thì nhận lãnh từ tổ tiên họ là những thú vật. Thiên Chúa là Đấng đã khởi xướng và hướng dẫn toàn bộ cuộc tiến hoá của các sinh vật để cho nó kết tinh nơi con người là tột đỉnh trong chương trình của Thiên Chúa.
One final observation. What is amazing for us is that everyone receives from God the spirit which makes a person in the image of God. It is not so important that we owe our body to human parents while the first humans inherited theirs from animal ancestors. God is the one who gives the impulse and orientation to the whole evolution of living beings so that Man would appear in the end, the human one who, in fact, is first in God’s plan.
MỘT SỨ ĐIỆP MANG TÍNH TIÊN TRI
A PROPHETIC MESSAGE
Như chúng tôi đã nói về chương đầu, Tân Ước tìm lại được trong các bản văn cổ xưa này một nét phác thảo cho những gì sau này sẽ thành rõ ràng trong Đức Ki-tô.
As we mentioned in the first chapter, in these ancient texts the New Testament will discover all that will become clear “in Christ.”
Nếu A-đam đại diện cho tất cả loài người, một loài duy nhất trong nguồn gốc và trong vận mệnh của nó, thì Đức Ki-tô là A-đam đích thực. Ngay từ đầu cuộc sáng tạo, Đức Ki-tô đã hiện diện trong tư tưởng của Thiên Chúa. Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã ban phúc lành cho loài người, trong đó mỗi người có những nét độc đáo của mình, mà vẫn không tách rời khỏi toàn thể (Ep 1,10).
If Adam re-presents the whole human race, one in its origin and also in its destiny, then Christ is the authentic Adam. From the beginning of creation God has blessed this race where each one has his/her own unique characteristics and yet is inseparable from the whole (Eph 1:10).
Tổ tiên thứ nhất của chúng ta theo xác phàm hẳn là đáng được tưởng nhớ với lòng yêu mến, nhưng vị thứ hai mới đáng kể, vì Người là Con Người, Đấng ban cho ta Thần Khí (1 Cr 15,45-49).
Our first human ancestor deserves a charitable remembrance, but it is another who counts, who is “Man,” he who gives us the Spirit (1 Cor 15:45-49).
Về phần mình, đôi vợ chồng được giới thiệu như hình ảnh đích thực của một Thiên Chúa mà trong chính bản tính của Người, Người là hiệp thông vĩnh cửu. Khi tạo dựng lứa đôi, Thiên Chúa cho chúng ta hiểu được phần nào về mầu nhiệm Đức Ki-tô, Đấng đến với cả nhân loại như là Hôn Phu (Mc 2,19). Bà E-và xuất phát từ cạnh sườn ông A-đam khi ông đang ngủ ; từ cạnh sườn Đức Ki-tô đã chết trên thập giá, nước và máu trào ra (Ga 19,34) báo trước việc sinh ra của một Hội Thánh đã được thanh tẩy bằng nước của phép rửa và máu Đức Ki-tô (Ep 5,26-31).
As for the human couple, they are presented as the authentic image of a God who is eternal communion. By creating the couple, God allows us to understand something of the mystery of Christ who presents himself to all of humanity as the “Bridegroom” (Mk 2:19). From the side of Adam asleep, Eve was born; from the side of Christ, dead on the cross, blood and water flowed (Jn 19:34) which means the birth of a church cleansed through the water of baptism and the blood of Christ (Eph 5:26, 31).