Trích từ Lời Chúa cho Mọi Người với phép của nhóm PVGK.
Trích từ Christian Community Bible with permission.
Chương 20
* 20,1 Tổ tiên dân Ít-ra-en là những người du mục, sống giữa các dân tộc khác và đã xảy ra những cuộc tranh chấp giữa hai bên. Người Ít-ra-en nhớ lại các cuộc tranh chấp này. Ba lần, sách Sáng Thế kể lại cùng một câu chuyện với những nhân vật khác nhau, trong những hoàn cảnh cũng khác nhau (St 12,14 ; 26,7). Nhưng nếu đọc ba câu chuyện này theo thứ tự sắp xếp của Sáng thế, người ta nhận thấy có tiến bộ : một mặt, tổ phụ được nói đến một cách tế nhị hơn ; mặt khác, ý thức về tội cũng rõ ràng hơn.
Chapter 20
• 20.1 The Israelites remembered the conflicts between their wandering ancestors and the people among whom they lived. The present event is related in three different parts of Genesis with different people as protagonists and in different circumstances (see 12:14 and 26:7).
Chương 21
* 21,1 Đức Chúa viếng thăm bà Xa-ra như Người đã phán, và Người đã làm cho bà như Người đã hứa. Sau nhiều năm, Thiên Chúa thực hiện lời hứa với ông Áp-ra-ham. I-xa-ác là đứa con của lời hứa, vì, trái với mọi mong đợi của con người, I-xa-ác sinh ra là do một lời Thiên Chúa hứa (Gl 4,22 ; Rm 9,7).
Chapter 21
•21.1 Yahweh was kind to Sarah as he had said. And so, after some years, God fulfills his promise to Abraham (see chapter 18). Isaac is the son of the promise because he was born contrary to all human hope and to fulfill God’s promise (see Gal 4:22 and Rom 9:7).
Bà Xa-ra sinh cho ông Áp-ra-ham một con trai khi ông đã già. Như vậy, trong Kinh Thánh, chúng ta thấy có nhiều cuộc sinh ra không lệ thuộc luật tự nhiên : Sa-mu-en, Sam-sôn, Gio-an Tẩy Giả… Tất cả những con người này đều là những vị cứu tinh. Các cuộc sinh ra này là hình bóng tiên báo cuộc sinh ra của Chúa Giê-su bởi một người nữ đồng trinh, cũng như cuộc sinh ra thứ hai của những kẻ được bước vào Hội Thánh nhờ bí tích Thánh Tẩy.
Sarah became pregnant and bore a son to Abraham in his old age. In the Bible we find some births which occur outside of the normal laws of nature: Samuel, Samson, John the Baptist… all are saviors. These births announce and prefigure the virginal birth of the Savior, Jesus.
* 21,8 Chúng ta dễ dàng đoán ra đây là một dị bản của câu chuyện được kể ở ch. 16. Nhưng ở ch. 16, người ta gọi Thiên Chúa với danh hiệu Đức Chúa, đồng thời cũng nói đến một giếng nước trong sa mạc. Điều này đủ để ta thấy rằng câu chuyện được truyền tụng trong các bộ lạc miền Nam (lãnh thổ Giu-đa). Trong khi câu chuyện ở ch. 21 này xuất xứ từ các bộ lạc miền Bắc (Ít-ra-en).
• 8. It is easy to guess that this account is a different version of what is given in chapter 16. But in chapter 16 God is given the name Yahweh, and a well in the southern desert is mentioned which suggests that the story has come from the tribes of the south (territory of Judah) whereas the one in chapter 21 comes from the tribes of Israel, in the north.
Nhiều vấn đề xảy ra trong gia đình ông Áp-ra-ham cũng như trong bất cứ gia đình nào, mà qua đó Thiên Chúa lại thực hiện chương trình của Người. Ha-ga ra đi với con mình là phải lẽ, để cho I-xa-ác nhận được tất cả mọi sự săn sóc của người cha. I-xa-ác sẽ không thừa hưởng của cải vật chất nhưng là các lời hứa Thiên Chúa dành cho dòng dõi ông. Thiên Chúa luôn trung thành thực hiện các dự định của Người, nhưng Người không đè bẹp một ai : ở đây ta nhận ra lòng thương xót của Người đối với Ha-ga.
There are problems in Abraham’s family as in any other family, and God uses them to carry out his plan. It is good for Hagar to leave with her son so that Isaac may receive all of his father’s care. Isaac will inherit, not something material for himself, but God’s promises to his children. God steadfastly realizes his plans, but does not trample on anyone: see how compassionate he is with Hagar.
Cũng như các người vị vọng trong dân tộc mình, ông Áp-ra-ham có nhiều vợ. Trong một thời gian dài, người Ít-ra-en xem đây là một tập tục bình thường. Chỉ với thời gian, Thiên Chúa mới làm cho họ khám phá ra các đòi hỏi của hôn nhân.
Con của người nô lệ không được thừa kế gia tài cùng với con của người tự do (Gl 4,30 ; 2 Cr 6,14).
Abraham had several wives, as important men in his community usually did. The Israelites kept on considering this custom as normal for many years. It was only gradually that God led them to discover the demands marriage.
“The son of the slave girl will not inherit with the son of the free woman” (Gal 4:28; 2 Cor 6:14).
Chương 22
22,1 Chúng ta khó chấp nhận câu chuyện ông Áp-ra-ham sát tế I-xa-ác : làm sao Thiên Chúa có thể truyền ông phải sát tế con mình ? Để hiểu bản văn này, chúng ta phải đọc nó ở hai cấp độ. Ở cấp độ thứ nhất, bản văn là một lời lên án rõ ràng nhất về việc sát tế con người. Đừng quên rằng vào thời bản văn được soạn thảo, sát tế con cái là một tục lệ phổ biến trong dân Ca-na-an. Và nhiều người Ít-ra-en cũng bị lôi cuốn bởi tục lệ này và nghĩ rằng làm như vậy ắt là làm đẹp lòng Thiên Chúa. Vì thế, các ngôn sứ đã mạnh dạn lên án tục lệ giết con cái làm lễ tế (Gr 19).
Chapter 22
• 22.1 The account of the sacrifice of Isaac shocks us: how could God ask Abraham to sacrifice his son? Doubtless in order to understand this text it should be understood from two different points of view. The text is first a formal condemnation of human sacrifices. We must not forget that at the time this account was drawn up the sacrifice of children was practiced by the Canaanites: many Israelites following the example of the Canaanites thought that such sacrifice was pleasing to God. The prophets strongly opposed this kind of sacrifice (see Jer 19).
Ở đây, lúc đầu ông Áp-ra-ham xem việc sát tế con mình là thánh ý Thiên Chúa, nhưng vào cuối câu chuyện, Thiên Chúa can thiệp một cách dứt khoát hầu ngăn cản ông Áp-ra-ham giết con. Ở cấp độ này, bản văn cũng biện minh cho nghi thức chuộc lại các con đầu lòng của loài người. Mọi con đầu lòng và của đầu mùa đều thuộc về Thiên Chúa : trong khi các con đầu lòng của loài vật thì phải chết, còn các con đầu lòng của loài người thì phải chuộc lại (Xh 13,13).
In a first instance Abraham sees the immolation of his son Isaac as the will of God but the end of the account clearly states that God prevents him from carrying it out. In a first reading the text also justifies the ransom of firstborn children. All first-fruits belong to God; but unlike the firstborn of animals which are immolated, children are redeemed (Ex 13:13).
Thế nhưng, bản văn sách Sáng the mời gọi chúng ta đọc ở cấp độ cao hơn và nhận ra trong đó lòng tin vững vàng của tổ phụ Áp-ra-ham : Thiên Chúa thử thách các bạn hữu của Người để lòng tin của họ được lớn lên. Thiên Chúa dành những ơn trọng đại cho những kẻ tuy hầu như không còn hy vọng mà vẫn trung thành với Người. Suốt đời mình, ông Áp-ra-ham đã tin vào lời Thiên Chúa hứa cho I-xa-ác : nhưng bây giờ ông có sãn sàng hy sinh các lời hứa cùng với con mình không ? Thiên Chúa đã đặt ông trên một con đường, bây giờ ông sẽ làm gì khi con đường ấy xem như đang lạc hướng ?
The text of Genesis, however, invites us to read in this the example of unfailing faith of the patriarch: God tests his friends in order to increase their faith. God saves his best gifts for those who remain faithful during times when he takes all hope away from them. In the course of his life Abraham had trusted in God’s promises for his son. Now, would Abraham be willing to sacrifice his son and the promises? God has placed him on a road. What will Abraham do when the road appears closed?
Sau cơn thử thách, ông Áp-ra-ham sẽ biết mình yêu thương con theo cách Thiên Chúa muốn, vì ông đã ưu tiên chọn Thiên Chúa trước con mình. Cũng như ông Áp-ra-ham, chúng ta sẽ nhận thấy rõ hơn rằng Thiên Chúa chứng giám các dấn thân của ta khi ta chứng tỏ rằng mình sãn sàng từ bỏ chúng nếu đó là thánh ý Thiên Chúa. Khi các lời hứa của Thiên Chúa hình như tiêu tan, sụp đổ, thì chính tình yêu đích thực sẽ giữ chúng ta mãi trung thành với Người.
After the test, Abraham would know that he loves his son in the same way God loves, because he chose God over his son. We know without doubt that God approves our dedication to a particular task if on some occasion we have shown that we are willing to let go even of that task, if God wills it so.
Likewise when our hope in God’s promises seems to fall to pieces, only true love can keep us faithful.
Ông Áp-ra-ham sát tế I-xa-ác để rồi nhận lại được con mình một cách trọn vẹn hơn. Truyền thống Ki-tô giáo xem câu chuyện này là lời báo trước Chúa Cha sẽ trao ban Con Một Người cho ta, để nhờ cái chết trên thập giá và sự phục sinh của Người Con này mà chúng ta được cứu độ. Chúa Cha đã hy sinh Con Một Người để cứu độ người tội lỗi. Cho dù các từ : hy tế, đau khổ, tình yêu, không có cùng một nghĩa đối với Thiên Chúa như đối với chúng ta, chúng ta cũng đừng nghĩ rằng Thiên Chúa là một Thiên Chúa dửng dưng, không biết xót thương, đòi hỏi chúng ta những hy sinh mà chính Người đã không hề trải qua (Rm 5,8 ; 8,32).
But no explanation can soothe our wounded sensibilities on seeing how God imposes on Abraham the most costly sacrifice for a father. Is there no other way to bring us to perfect love? Though Abraham is a believer and God’s friend, he is also a sinful man and only “surgery” can purify his heart. Here, it is Abraham who dies, not Isaac; and yet through his sacrifice, Abraham achieves life (see Lk 17:33; Rom 4:17; Heb 11:19).
The Christian tradition has seen in this account of Abraham sacrificing his son a prefigurement of God the Father giving his own Son to save sinners. Though the terms sacrifice, suffering, love have not the same meaning for God as for ourselves, we should not think that an indifferent and pitiless God asks of us sacrifices of which he has no experience (Rom 5:8; 8:32).
Chương 23
* 23,1 Ông Áp-ra-ham đã đi khắp xứ Pa-lét-tin mà không có được một thửa đất làm của riêng (Cv 7,5) : tất cả mọi sự Thiên Chúa ban cho ông còn là lời hứa. Về mặt này, ông là một gương mẫu cho các người tin : cho đến khi chết, họ là những người không có gì ngoài điều được hứa ban cho họ. Nhưng, cái chết của bà Xa-ra là cơ hội để ông Áp-ra-ham mua ít ra là một mảnh đất làm nơi chôn cất vợ mình.
Chapter 23
• 23.1 Abraham travels throughout Palestine without ever having a place of his own (Heb 7:9); he holds everything as a promise. Sarah’s death however, gives Abraham the opportunity, at least, to buy a place for her burial.
* 24,3 Chú sẽ không cưới cho con trai tôi một người vợ trong số con gái xứ Ca-na-an. Ông I-xa-ác là “con của lời hứa”, và trung thành với lời hứa là điều ông Áp-ra-ham quan tâm hàng đầu. Người Ca-na-an là những kẻ thờ thần ngoại nên ông I-xa-ác mà kết hôn với một người con gái xứ Ca-na-an sẽ là một mối nguy cho lòng trung thành với lời hứa. Vì thế, phải tìm cho ông I-xa-ác một người vợ trong số bà con của ông Áp-ra-ham còn ở lại Kha-ran. Đến lượt mình, bà Rê-bê-ca cũng rời bỏ xứ sở, họ hàng, để gia nhập gia đình tổ phụ Áp-ra-ham và trở thành mẹ của dân tộc được tuyển chọn.
•24.1 You will not choose a wife for my son from the daughters of the Canaanites among whom we live. Isaac is the “son of the promise,” and faithfulness to this promise is Abraham’s great concern. The marriage of his son to a Canaanite woman, whose people are accustomed to pagan worship, would endanger this faithfulness.
To belong to Abraham’s family and to become the mother of the chosen people, Rebekah must also give up her home and her land.
* 24,14 …thì đó là người Chúa sẽ xe duyên cho tôi tớ Chúa là I-xa-ác. Thiên Chúa hướng dẫn những người tiên vàn muốn thực hiện thánh ý Người khi kết hôn với nhau ; Thiên Chúa làm cho họ gặp được người sẽ giúp họ thực hiện ước muốn này. Đây cũng sẽ là đề tài sách Tô-bi-a.
14. Let her be the one you have chosen for your servant Isaac. God guides those who seek to do his will, above all when they choose to marry; he will enable them to meet the person best suited to help them realize this desire. Such will also be the subject of the Book of Tobit.
Chương 25
* 25,1 Mơ-đan, Ma-đi-an, Sơ-va, Đơ-đan : đây là tên của các chi tộc và các sắc dân Ả-rập. Vì người Ít-ra-en coi mình như bà con họ hàng với những người ấy về dòng tộc và về ngôn ngữ, nên người Ít-ra-en nói về họ như là dòng dõi của ông Áp-ra-ham.
Chapter 25
•25.1 Medan, Midian, Sheba, Dedan: these are names of tribes and peoples of Arabia. Since the Israelites considered them their relatives by race and language, they wanted them to also be Abraham’s descendants.
* 25,21 Ở đầu ch. 12 chúng ta đã thấy các tác giả sách Sáng thế mô tả tổ tiên của họ là ông Áp-ra-ham như là người cha và mô phạm của những kẻ tin. Vậy, người ta có thể thắc mắc tại sao người Ít-ra-en lại được gọi là con cái Ít-ra-en (hay là con cái Gia-cóp) chứ không gọi là con cái ông Áp-ra-ham.
• 21. We may be astonished that the Israelites called themselves the sons of Israel (or sons of Jacob) rather than the sons of Abraham.
Trước tiên, xin nhắc lại điều đã nói trong phần Dẫn nhập : sự nối tiếp Ông Áp-ra-ham cha của ông I-xa-ác, cha của ông Gia-cóp chỉ là chuyện sắp xếp lịch sử về các tổ tiên sơ khởi của dân Thiên Chúa. Ba danh xưng này được duy trì trong các truyền thống có gốc từ nhiều miền khác nhau và các nhân vật tương đương đã không sống cùng một thời đại với nhau. Ông Áp-ra-ham đã phải sống vào tk XXVIII tCN, ông I-xa-ác hẳn là sau đó một chút, nhưng tại một chỗ khác ở miền nam xứ Pa-lét-tin, tức là Ghê-ra, còn ông Gia-cóp thì vào tk XVI hoặc XV tCN.
Let us remember first what has been said in the Introduction: the sequence Abraham, father of Isaac, father of Jacob is only a construction of the history of these first fathers of the people of God. These three names were kept in the early traditions of different regions, and the corresponding persons had not lived at the same time. Abraham would have lived in the 18th century before Jesus, Isaac doubtless a little later, but in another corner of Southern Palestine, at Gerar, and Jacob in the 16th or 15th century. If the name of Abraham has been eclipsed by that of Jacob the reason is without a doubt the following.
Nếu tên ông Áp-ra-ham thực tế đã biến mất trong lịch sử Ít-ra-en nhường chỗ cho ông Gia-cóp, thì lý do hẳn là như sau : ông Áp-ra-ham là vị tổ phụ vĩ đại của miền nam xứ Pa-lét-tin, địa điểm chính của ông là Mam-rê, gần Khép-rôn ; ông được coi như tổ tiên của ông Đa-vít, và ông Đa-vít lại đã không trị vì ở Khép-rôn sao ? Ngược lại, các truyền thống bình dân được Sách Thánh đặc biệt kể lại ở đây, cho chúng ta thấy Ít-ra-en định cư tại trung bộ Pa-lét-tin, nơi mà sau biến cố ly khai, vương quốc Ít-ra-en hùng mạnh được thiết lập. Xem ra chính lúc ấy trong vương quốc miền bắc này hình ảnh ông Áp-ra-ham bị đặt lùi ra phía sau để dành chỗ nhất cho nhân vật Ít-ra-en (Gia-cóp) nhằm làm cho mười hai chi tộc xuất phát từ mười hai người con của ông.
Thật ra, ông Gia-cóp sẽ được mô tả với những nét gần con người hơn và ít lý tưởng hoá hơn ông Áp-ra-ham. Hẳn là dân Ít-ra-en nhận ra mình nơi ông ấy, là con người mánh lới và gian manh, hơn là nơi ông Áp-ra-ham là mẫu mực của những kẻ tin.
Abraham was in fact the great patriarch of the south of Palestine, he had settled in Mamre, near Hebron; he was taken to be the ancestor of David. Did David not reign in Hebron? Popular traditions recounted in the Bible come from the tribes established in central Palestine, where the powerful kingdom of Israel would be established after the schism. Then it seems that in this northern kingdom the figure of Abraham was “demoted” with the first place given to Israel–Jacob; then they had the twelve tribes descending from the “twelve sons” of Jacob.
* 25,23 Có hai dân tộc trong bụng ngươi. Đừng quên rằng trong chuyện này mỗi nhân vật đại diện cho dân tộc cùng tên. Y như là Ít-ra-en / Gia-cóp là tổ tiên của dân Ít-ra-en, Ê-xau hoặc Ê-đôm (25,31) được coi như tổ tiên của dân Ê-đôm là anh em thù nghịch với dân Ít-ra-en.
Two nations are in your womb (v. 23). We must not forget that, in this story, each character represents a group of people bearing the same name. Just as Jacob–Israel was considered the ancestor of the Israelites, so Esau or Edom (25:31) was considered the ancestor of the Edomites, neighbors and rivals of the Israelites.
Các chương này cho thấy Thiên Chúa tự do khi Người chọn dân này mà không chọn dân kia để làm phương tiện cứu độ. Thiên Chúa sẽ luôn luôn tự do chọn lựa như thế đối với những kẻ Người uỷ thác cho một sứ mạng có phần khác thường.
These chapters show the freedom of God who chooses the Israelites rather than the Edomites to be the instrument of his salvation; even among the Israelites God chooses whom he wants to be put in charge of a more or less transcendent mission.
Các chương này đưa ra cho chúng ta ba lý do khác nhau tại sao Ê-xau bị Thiên Chúa từ bỏ :
In this chapter we are given three reasons for the rejection of Esau:
- Một đoạn văn của ch. 25 nói rằng vì một bát cháo anh ta đã coi thường các quyền lợi linh thiêng của người con trưởng.
- Một đoạn khác (26,34) nói đến chuyện anh cưới các cô vợ ngoại bang.
- Sau cùng, một đoạn nữa (ch. 27) cho thấy Thiên Chúa dùng mưu của bà Rê-bê-ca để làm cho Gia-cóp người con của bà đạt mục đích bà nhắm. Những người Ít-ra-en không bối rối nhiều như chúng ta về chuyện nói dối. Với họ, mưu mô của bà Rê-bê-ca cho thấy bà làm hết cách để cho con bà được hưởng những điều Thiên Chúa hứa.
- A passage in chapter 25 shows Esau to be guilty: he himself scorned his sacred rights as eldest son.
- Another passage, 26:34, mentions his marriage to foreign women.
- A third passage (in chapter 27) shows how God takes advantage of one of Jacob’s tricks to achieve his goals. The Israelites were not very scrupulous about lying. For them Jacob’s trick only showed that he was determined to get God’s promises by any means, and in so doing, he becomes deserving of these promises.
Trong thư Hr 12,16, Ê-xau được mô tả như một kẻ gian ác khi anh đổi phúc lành của Thiên Chúa lấy một miếng ăn. Biết bao dịp cũng bị bỏ mất như thế trong đời chúng ta : những chuyện ngu xuẩn trong cuộc sống đã mê hoặc chúng ta và làm cho chúng ta bỏ lỡ điều duy nhất không được để mất.
In Hebrews 12:16 Esau will be mentioned as an example of a godless person, one who sells God’s blessing for a meal. How many lost opportunities in our own life: stupid things in life have bewitched us and caused us to miss what alone is worth keeping!